Nâng cao vai trò động lực tăng trưởng kinh tế của công nghiệp chế biến, chế tạo

Đăng ngày: 16/10/2021 , 16:10 GMT+7

Trong quá trình phát triển kinh tế của nước ta hiện nay có sự đóng góp của nhiều ngành, lĩnh vực, trong đó ngành công nghiệp chế biến, chế tạo (CBCT) là ngành mũi nhọn, giữ vai trò động lực quan trọng cho tăng trưởng kinh tế. Tuy nhiên, thực trạng phát triển của công nghiệp CBCT thời gian qua cũng bộc lộ những hạn chế, tồn tại, cần có những giải pháp, chính sách phát triển công nghiệp chế biến, chế tạo nhằm phát huy vai trò động lực tăng trưởng của ngành công nghiệp này trong thời gian tới.

Chuyên đề “Công nghiệp chế biến, chế tạo - Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020” do Tổng cục Thống kê thực hiện nhận định, trong giai đoạn 2011-2020, nền kinh tế nước ta đạt được nhiều tiến bộ, kinh tế vĩ mô ổn định và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong bối cảnh đó, công nghiệp CBCT phát triển tích cực phù hợp với định hướng tái cơ cấu ngành công nghiệp, các ngành chủ lực như điện tử, dệt may, da giày... tăng trưởng khá, là yếu tố chính đóng góp vào phát triển của ngành công nghiệp và toàn bộ nền kinh tế; tạo thêm nhiều việc làm cho xã hội, nâng thứ hạng năng lực cạnh tranh của công nghiệp Việt Nam.

Bình quân giai đoạn 2011-2020, công nghiệp CBCT là ngành có mức đóng góp cao nhất vào tốc độ tăng giá trị tăng thêm bình quân của nền kinh tế với 1,9 điểm phần trăm/năm; lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong ngành CBCT tăng bình quân 4,8%/năm. Các sản phẩm công nghiệp trong thời gian qua đã được đầu tư đúng hướng, có trọng tâm, trọng điểm, tham gia vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Công nghiệp CBCT là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế, bình quân giai đoạn 2011-2020 tăng 10,44%/năm. Đóng góp của ngành CBCT vào tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao nhất và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước. Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn theo định hướng chiến lược phát triển của ngành CBCT đã trở thành các ngành công nghiệp lớn, đưa nước ta cơ bản đã hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu với sự dẫn dắt của một số doanh nghiệp công nghiệp lớn như điện tử, dệt may, da giày…

Bình quân giai đoạn 2011- 2020, một số sản phẩm công nghiệp CBCT chủ yếu có tốc độ tăng khá như: Phân hóa học tăng 5,4%/năm; ô tô lắp ráp tăng 8,5%/năm; sứ vệ sinh tăng 6,1%/năm; xi măng tăng 6,9%/năm; quần áo mặc thường tăng 7,2%/năm; thép cán và thép hình tăng 11,1%/năm; sợi tăng 14,9%/năm; ti vi lắp ráp tăng 20,6%/năm; điện thoại di động tăng 21%/năm; máy giặt dùng trong gia đình tăng 21,6%/năm. Bên cạnh đó, một số sản phẩm CBCT tăng thấp hoặc giảm như: Xe đạp tăng 1,4%/năm; máy tuốt lúa tăng 1,8%/năm; máy in tăng 1,9%/năm; xe mô tô, xe máy lắp ráp và quạt điện dùng trong gia đình cùng tăng 2,3%/năm; phân NPK và máy điều hòa không khí cùng tăng 2,9%/năm; gạch nung giảm 4,5%/năm; điện thoại cố định giảm 16,5%/năm. Nét nổi bật là xuất khẩu các sản phẩm của ngành CBCT tăng khá, tỷ trọng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ngành công nghiệp CBCT trong tổng kim ngạch xuất khẩu luôn ở mức cao, từ 81,8% năm 2011 tăng lên 95,1% trong năm 2020. Công nghiệp CBCT với xuất khẩu là 2 bệ đỡ quan trọng, giữ vai trò chủ chốt dẫn dắt mức tăng trưởng chung của ngành công nghiệp và toàn nền kinh tế.

Sản xuất nhiều ngành công nghiệp CBCT tăng trưởng cao và ổn định

Bình quân giai đoạn 2012-2020, chỉ số sản xuất ngành công nghiệp (IIP) ngành CBCT tăng 9,5%/năm, cao hơn IIP của toàn ngành công nghiệp (7,8%/năm). Những năm 2012, 2013 và 2014 là thời kỳ nền kinh tế thế giới khôi phục sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (2008-2009), kinh tế nước ta mà cụ thể là ngành công nghiệp CBCT chịu tác động không nhỏ từ cuộc khủng hoảng đó. Tốc độ tăng IIP toàn ngành công nghiệp trong những năm này chỉ đạt tương ứng 5,8%; 5,9% và 7,6%. Tuy nhiên, những năm sau đó, khi nền kinh tế dần phục hồi và có những phát triển tích cực thì IIP được cải thiện mạnh mẽ. Năm 2015, tăng trưởng IIP ngành công nghiệp đạt 9,8%, là mức tăng cao hơn nhiều so với những năm trước đó; trong đó ngành CBCT tăng 10,5%, đóng góp quan trọng vào tốc độ tăng GDP 6,68%. Trong giai đoạn 2016-2019, tốc độ tăng IIP của ngành công nghiệp lần lượt là 7,4%; 11,3%; 10,1% và 9,1%; trong đó tốc độ tăng IIP của ngành CBCT là 11,3%; 14,7%; 12,2% và 10,4%. Tương ứng với tốc độ tăng IIP của ngành công nghiệp và ngành CBCT trong giai đoạn này, tăng trưởng GDP đạt 6,21%; 6,81%; 7,08% và 7,02%. Riêng năm 2020, đại dịch Covid-19 đã làm đứt gãy chuỗi cung ứng các nguyên liệu đầu vào cho sản xuất nên tốc độ tăng IIP của ngành công nghiệp chỉ đạt 3,3%, trong đó IIP ngành CBCT đạt 4,8%, GDP sơ bộ tăng 2,91% và đều là các mức tăng thấp nhất trong giai đoạn 2011-2020.

Đóng góp vào tăng trưởng tích cực của giá trị sản xuất ngành CBCT trong giai đoạn này là các ngành công nghiệp trọng điểm có tốc độ tăng chỉ số sản xuất cao và ổn định.

Trong đó, ngành sản xuất kim loại duy trì đà tăng trưởng cao với tốc độ tăng IIP bình quân giai đoạn 2012-2020 đạt 14,6%/năm, đặc biệt những năm 2016-2019 đạt tốc độ tăng cao: Năm 2016 tăng 17,9%; năm 2017 tăng 22,1%; năm 2018 tăng 25% và năm 2019 tăng 28,7%. Riêng năm 2020 tăng thấp 14,3% do ảnh hưởng tiêu cực của đại dịch Covid-19. Tốc độ tăng IIP của ngành sản xuất kim loại cao trong giai đoạn này do có sự đóng góp tích cực của Tập đoàn Formosa đi vào sản xuất năm 2017 và tiếp tục mở rộng quy mô sản xuất trong các năm tiếp theo. Bên cạnh đó còn có một số dự án được đưa vào hoạt động trong năm 2018 như: Tập đoàn Hòa Phát đưa vào hoạt động dự án thép cán khoảng 600 nghìn tấn trong tháng 8/2018; Tập đoàn Hoa Sen đưa thiết bị dây chuyền cán nguội, mạ kẽm/lạnh, mạ màu vào hoạt động với công suất 350 nghìn tấn; công ty Tung Ho (Đài Loan) đưa vào dây chuyền sản xuất công suất 600 nghìn tấn thép xây dựng trong 6 tháng cuối năm 2018.

Ngành sản xuất sản phẩm điện tử, máy vi tính và sản phẩm quang học chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu ngành công nghiệp CBCT, đạt mức tăng cao nhưng tốc độ tăng không đồng đều giữa các năm: Năm 2012 tăng 14,4%; năm 2013 tăng 2,2%; năm 2014 tăng 35,2%; năm 2015 tăng 35,1%; năm 2016 tăng 12,5%; năm 2017 tăng 35,2%; năm 2018 tăng 10,7%; năm 2019 tăng 1,8%; năm 2020 tăng 12%, bình quân giai đoạn 2012-2020 tăng 17%/năm. Năm 2020, xuất khẩu sản phẩm điện tử, máy vi tính, linh kiện tăng 22,8% so với năm trước chủ yếu do doanh nghiệp FDI vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong sản xuất và xuất khẩu nhờ làm chủ được công nghệ, đưa Việt Nam dần trở thành công xưởng sản xuất và lắp ráp linh kiện cho các sản phẩm điện tử của nhiều hãng lớn trên thế giới như Samsung, LG, Canon, Toshiba...

Công nghiệp sản xuất đồ uống cũng phát triển với tốc độ nhanh, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong nước và đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu. Bình quân giai đoạn 2012-2020, IIP ngành sản xuất đồ uống tăng 7,3%/năm; trong đó năm 2012 đạt tốc độ tăng cao nhất 11,3%; năm 2017 là 6,1%; năm 2018 đạt 7,9%; năm 2019 là 10,5%; riêng năm 2020 giảm 5,1% do tác động kép của đại dịch Covid-19 và Nghị định số 100/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định về xử phạt hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ, đường sắt (tăng chế tài xử phạt đối với các hành vi vi phạm nồng độ cồn). Hiện nay, nhiều doanh nghiệp đồ uống nội địa có năng lực cạnh tranh cao, dẫn đầu thị trường về sản xuất các sản phẩm đáp ứng nhu cầu trong nước như Công ty sữa Việt Nam Vinamilk, Công ty CP sữa TH True Milk, Công ty Cổ phần Thực phẩm dinh dưỡng Nutifood… Tuy nhiên, đối với bộ phận doanh nghiệp nhỏ và vừa vẫn còn nhiều khó khăn với rào cản kỹ thuật từ thị trường, cùng với đó, khối lượng hàng hóa nhỏ, chi phí logistics cao làm tăng giá thành sản phẩm hàng hóa. Ngoài ra, những thay đổi trong hành vi của người tiêu dùng và tác động tiêu cực từ dịch Covid-19 đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng chiến lược sản xuất kinh doanh cho phù hợp với tình hình mới.

Ngành công nghiệp dệt may trong những năm gần đây đã có những bước tiến tích cực, tốc độ tăng chỉ số sản xuất công nghiệp ngành dệt bình quân giai đoạn 2012-2020 đạt 11,8%/năm (các năm có tốc độ tăng cao trên 10% là: năm 2013 tăng 21%; năm 2014 tăng 19,7%; năm 2015 tăng 14%; năm 2016 tăng 16,9%; năm 2018 tăng 12,5% và năm 2019 tăng 10,9%). Một số thương hiệu may mặc được khẳng định trên thị trường trong và ngoài nước như: May 10, May Việt Tiến, Dệt Kim Đông Xuân, Gấm Thái Tuấn, áo sơ mi An Phước… Những thương hiệu này không chỉ đứng vững ở thị trường trong nước mà còn giúp ngành dệt may Việt Nam tạo dựng tên tuổi trên thị trường nước ngoài.

Năm 2020, ngành dệt may, giày dép, túi xách, sản xuất trang phục là những ngành chịu tác động tiêu cực và kéo dài nhất của đại dịch Covid-19. Chỉ số IIP ngành dệt giảm 0,5%; ngành sản xuất trang phục giảm 4,9% do đại dịch làm đứt gãy nguồn cung nguyên liệu, thu hẹp thị trường tiêu thụ các sản phẩm may mặc, nhu cầu sản phẩm dệt may giảm sút mạnh khi người tiêu dùng trên thế giới chỉ quan tâm đến đồ dùng thiết yếu và phòng chống dịch. Điều này khiến các doanh nghiệp dệt may Việt Nam phải đối mặt với nhiều khó khăn và tìm cách tồn tại, phát triển phù hợp với bối cảnh mới.

Ngành sản xuất thuốc, hoá dược và dược liệu có mức tăng bình quân 7,8%/năm, trong đó năm 2020 đạt mức tăng cao nhất trong giai đoạn 2012-2020 với 21,8% do đây là năm phải tiêu dùng nhiều sản phẩm của ngành dược để chữa bệnh và phòng chống đại dịch Covid-19. Với tác động từ các Hiệp định Thương mại tự do được ký kết, công nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội lớn để chuyển dịch cơ cấu, phát triển sản xuất trong nước, nâng cao năng lực cạnh tranh, chất lượng sản phẩm và xây dựng thương hiệu của mình trong bối cảnh hội nhập sâu rộng. Đặc biệt, Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam và châu Âu chính thức có hiệu lực từ ngày 01/8/2020 đã có tác động tích cực đối với nước ta, giúp doanh nghiệp phát triển thị trường xuất khẩu, tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu, phát triển công nghiệp hỗ trợ nhất là đối với các sản phẩm may mặc, giày dép.

Về tốc độ tăng giá trị tăng thêm, trong giai đoạn 2011-2020, tốc độ tăng giá trị tăng thêm ngành CBCT luôn cao hơn tốc độ tăng GDP. Bình quân giai đoạn 2011-2015, ngành CBCT tăng 9,64%/năm, cao hơn nhiều so với tốc độ tăng GDP 5,91%/năm; giai đoạn 2016-2019, ngành CBCT tăng 12,64%/năm, trong khi đó GDP tăng 6,78%/năm. Riêng năm 2020, do ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, ngành CBCT sơ bộ chỉ tăng 5,82%; GDP tăng 2,91%. Tính chung tốc độ tăng GDP bình quân giai đoạn 2011-2020 đạt 5,95%/năm, trong đó ngành CBCT đạt 10,44%/năm.

Xuất khẩu sản phẩm công nghiệp CBCT tăng đều qua các năm

Quá trình hội nhập kinh tế sâu rộng giúp cho hoạt động xuất, nhập khẩu của nước ta đạt được nhiều thành tựu to lớn, đặc biệt xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp CBCT đã có nhiều đóng góp vào kim ngạch xuất khẩu hàng hóa chung của cả nước. Tỷ trọng xuất khẩu hàng hóa của ngành công nghiệp CBCT trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa cả nước luôn tăng đều qua các năm trong giai đoạn 2011-2020. Kim ngạch xuất khẩu của ngành CBCT trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước luôn chiếm tỷ trọng cao nhất trong các ngành kinh tế, trong đó năm 2020 đạt 268,7 tỷ USD, chiếm 95,1% tổng kim ngạch xuất khẩu và gấp 3,4 lần năm 2011.

Hiện nay, hàng hóa của Việt Nam đang dần hội nhập và có sức cạnh tranh với nhiều nước phát triển trên thế giới. Đây chính là bước ngoặt lớn, đem lại kết quả xuất siêu và đóng góp vào sự phát triển của nền kinh tế. Cán cân thương mại của ngành công nghiệp CBCT đạt thặng dư liên tiếp trong 5 năm 2016-2020, trong đó năm 2016 xuất siêu 3,1 tỷ USD; năm 2017 xuất siêu 6,1 tỷ USD; năm 2018 xuất siêu 17 tỷ USD; năm 2019 xuất siêu 23,8 tỷ USD; năm 2020 xuất siêu 33 tỷ USD.

Xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp CBCT đã đảm bảo đúng mục tiêu đề ra trong Chiến lược xuất, nhập khẩu hàng hóa giai đoạn 2011-2020, định hướng đến năm 2030. Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã có những thay đổi cơ bản, theo hướng vừa không ngừng nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều sản phẩm công nghiệp không chỉ đáp ứng cơ bản nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế mà còn xuất khẩu và chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa của cả nước.

Tăng trưởng xuất khẩu công nghiệp CBCT chủ yếu do một số mặt hàng xuất khẩu có tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cao sau: Năm 2019, điện tử, máy tính và linh kiện đạt 36,3 tỷ USD, chiếm 13,7% tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hóa và gấp 7,8 lần năm 2011; điện thoại và các linh kiện đạt 52 tỷ USD, chiếm 19,7% và gấp 8,1 lần; giày, dép đạt 18,3 tỷ USD, chiếm 6,9% và gấp 2,8 lần; dệt, may đạt 32,8 tỷ USD, chiếm 12,4% và gấp 2,5 lần; gỗ và sản phẩm gỗ 10,6 tỷ USD, chiếm 4% và gấp 2,7 lần; sản phẩm từ plastic đạt 3,4 tỷ USD, chiếm 1,3% và gấp 2,5 lần; hàng thủy sản đạt 8,5 tỷ USD, chiếm 3,2% và gấp 1,4 lần...

Năm 2020, trong bối cảnh bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch Covid-19 khiến hoạt động thương mại và đầu tư thế giới suy giảm, các nước nhập khẩu ngày càng siết chặt hàng rào phi thuế quan, bảo hộ trong nước gia tăng, kim ngạch xuất khẩu một số sản phẩm CBCT giảm so với năm 2019: Giày dép đạt 16,8 tỷ USD, giảm 8,3%; hàng dệt, may đạt 29,8 tỷ USD, giảm 9,2%; hàng thủy sản đạt 8,4 tỷ USD, giảm 1,2%; điện thoại các loại và linh kiện đạt 51,2 tỷ USD, giảm 1,5%; xơ, sợi dệt các loại đạt 3,7 tỷ USD, giảm 10,6%. Tuy nhiên có những mặt hàng kim ngạch xuất khẩu tăng cao so với năm trước như hàng điện tử, máy tính và linh kiện đạt 44,6 tỷ USD, tăng 22,8%; dây điện và cáp điện đạt 2,4 tỷ USD, tăng 23,1%; gỗ và sản phẩm gỗ đạt 12,4 tỷ USD, tăng 16,2%…

Hội nhập quốc tế là một điểm nhấn quan trọng của Việt Nam trong năm 2020. Chỉ trong vòng 1 năm, nước ta đã tham gia 3 Hiệp định thương mại tự do (FTA), mở ra thị trường rộng lớn và tiềm năng cho hoạt động ngoại thương trong thời gian tới như Hiệp định FTA Việt Nam - Liên minh châu Âu (EVFTA), Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực RCEP và FTA Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA). Bên cạnh việc khai thác tốt các thị trường truyền thống, doanh nghiệp Việt Nam cần mở rộng tìm kiếm, phát triển thêm nhiều thị trường mới nhằm tận dụng ưu đãi thuế quan từ các Hiệp định thương mại tự do. Để góp phần gia tăng giá trị trong chuỗi giá trị xuất khẩu, doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, mà cụ thể là doanh nghiệp xuất khẩu hàng CBCT cần tăng cường các biện pháp như chủ động nguồn nguyên liệu và nhân lực cho sản xuất; tăng cường thu thập, phân tích và trao đổi thông tin, nắm bắt tình hình thị trường xuất khẩu; đẩy mạnh việc tham gia vào chuỗi cung ứng khu vực và toàn cầu; nắm vững các quy định của các nước đối với việc nhập khẩu sản phẩm hàng hóa của Việt Nam.

Một số đánh giá về thành tựu, hạn chế

Theo Tổng cục Thống kê, nhìn một cách tổng quát, trong những năm vừa qua, đi đôi với tăng trưởng và ổn định, nền kinh tế Việt Nam đã có sự chuyển dịch cơ cấu mạnh mẽ. Chuyển dịch trong nội bộ ngành công nghiệp gắn liền với sự phát triển các tiểu ngành theo hướng đa dạng, từng bước hình thành một số ngành trọng điểm và mũi nhọn, có tốc độ phát triển cao, thuận lợi về thị trường, có khả năng xuất khẩu, đó là các sản phẩm của ngành công nghiệp CBCT. Ngành CBCT đã tìm cách khai thác được các nguồn lực của nền kinh tế và thu hút vốn đầu tư nước ngoài để sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu. Các sản phẩm công nghiệp quan trọng đều tăng khá như sản phẩm điện tử, điện thoại di động, ti vi lắp ráp, máy móc thiết bị dùng trong gia đình… Sự phát triển này đã góp phần đáng kể vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tỷ trọng của ngành CBCT trong GDP tăng dần, thực sự trở thành động lực cho phát triển nền kinh tế quốc dân.

Công nghiệp CBCT là ngành có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong các ngành kinh tế, bình quân giai đoạn 2011-2020 tăng 10,44%/năm. Đóng góp của ngành CBCT vào tăng trưởng kinh tế luôn đạt mức cao nhất và trở thành ngành xuất khẩu chủ lực của đất nước, góp phần đưa Việt Nam lên vị trí thứ 22 trong số các quốc gia xuất khẩu lớn nhất thế giới vào năm 2018. Một số ngành công nghiệp ưu tiên, công nghiệp mũi nhọn theo định hướng chiến lược phát triển của ngành CBCT đã trở thành các ngành công nghiệp lớn, đưa nước ta cơ bản đã hội nhập thành công vào chuỗi giá trị toàn cầu với sự dẫn dắt của một số doanh nghiệp công nghiệp lớn như điện tử, dệt may, da giày…

Cơ cấu sản phẩm xuất khẩu đã có những thay đổi theo hướng nâng cao giá trị gia tăng của các sản phẩm, tạo ra sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Nhiều sản phẩm công nghiệp không chỉ đáp ứng nhu cầu thiết yếu của nền kinh tế mà còn tham gia vào xuất khẩu và chiếm tỷ trọng cao như: mặt hàng dệt may, điện tử và linh kiện máy tính, thủ công mỹ nghệ… Các sản phẩm xuất khẩu của ngành dệt may và giày dép đạt khá, trong nhóm dẫn đầu các ngành hàng tham gia xuất khẩu.

Tỷ trọng xuất khẩu của khu vực FDI tăng nhanh, tập trung vào nhóm ngành chế biến thực phẩm và dầu khí, đóng góp đáng kể vào tăng trưởng xuất khẩu của nước ta và có vị trí chủ yếu trong một số mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Khu vực này đã góp phần nâng cao trình độ công nghệ, xây dựng mô hình tiên tiến, phương thức kinh doanh hiện đại, khai thác tiềm năng và huy động các nguồn lực tốt hơn việc phục vụ cho quá trình sản xuất. Đó là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Chuyển dịch nội bộ ngành công nghiệp CBCT theo hướng hình thành, phát triển một số ngành và sản phẩm mới thay thế nhập khẩu, ở khía cạnh hiệu quả kinh tế, một số loại sản phẩm được sản xuất ra với khối lượng ngày càng lớn như lắp ráp ô tô, xe máy, đồ điện tử, đường kính, xi măng… đã đáp ứng tốt hơn yêu cầu ngày càng phong phú về chủng loại của thị trường nội địa; nhiều mặt hàng có chất lượng cao đã chiếm lĩnh thị trường trong nước.

Mặc dù đạt được một số thành tựu nhất định, ngành công nghiệp CBCT vẫn tồn tại những hạn chế cần phải khắc phục trong thời gian tới. Đó là năng suất lao động vẫn ở mức thấp so với mức năng suất lao động chung của cả nước; trình độ, chất lượng của lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong ngành chế biến, chế tạo còn kém; động lực trong sản xuất và xuất khẩu các sản phẩm công nghiệp CBCT hiện nay chủ yếu được thúc đẩy bởi khu vực FDI (năm 2020 trị giá xuất khẩu của khu vực FDI chiếm 72,3% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước); CBCT mới chỉ tập trung chủ yếu vào các hoạt động sản xuất ở công đoạn cuối cùng trong chuỗi giá trị toàn cầu, đem lại giá trị gia tăng thấp...

Theo Ngân hàng Thế giới (Cơ sở dữ liệu các chỉ tiêu phát triển năm 2020), tỷ trọng ngành CBCT trong GDP của Việt Nam năm 2019 (16,5%) thấp hơn nhiều so với các nước trong khu vực ASEAN như Thái Lan (25,3%); Ma-lai-xi-a (21,4%); In-đô-nê-xi-a (19,7%); Phi-li-pin (18,5%); Xin-ga-po (19,8%); chỉ cao hơn các nước Cam-pu-chia (16,3%); Lào (7,5%) và Bru-nây (13,6%). Tỷ trọng giá trị tăng thêm ngành công nghiệp CBCT (MVA) trong GDP của các quốc gia công nghiệp phát triển thường nằm trong khoảng từ 20% đến 30% (UNIDO).

Giải pháp nâng cao vai trò của công nghiệp CBCT trong tăng trưởng kinh tế

Để khắc phục những khó khăn, thách thức, phát huy được vai trò động lực của ngành CBCT đối với nền kinh tế trong thời gian tới trước những thách thức cơ hội mới, cần tập trung thực hiện các giải pháp cơ bản.

Thứ nhất, tập trung nâng cao trình độ lao động.

Để nâng cao trình độ của ngành CBCT, bên cạnh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, đẩy mạnh ứng dụng công nghệ hiện đại thì vấn đề quan trọng của nước ta trong thời gian tới là phải nâng cao trình độ người lao động. Vì vậy, trong chính sách phát triển nguồn nhân lực cần nâng cao tỷ lệ lao động đã qua đào tạo đang làm việc trong các ngành kinh tế, giảm tỷ trọng lao động chưa qua đào tạo về chuyên môn kỹ thuật. Công tác giáo dục và đào tạo phải đổi mới theo hướng đáp ứng yêu cầu cung ứng nguồn nhân lực cho thị trường lao động trong nước và quốc tế, các hoạt động đào tạo cần phải thay đổi về cơ bản với chương trình được thiết kế linh hoạt nhằm đáp ứng chuẩn đầu ra của nghề và đa dạng hóa chương trình học.

Trong điều kiện CMCN 4.0, các hoạt động đào tạo nhân lực cần phải gắn kết với doanh nghiệp nhằm rút ngắn khoảng cách giữa đào tạo, nghiên cứu và triển khai. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ và phát triển các vườn ươm khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong các trường đại học đào tạo về công nghệ, ưu tiên các lĩnh vực nước ta có thế mạnh như công nghệ thông tin, công nghệ tự động hóa, công nghệ sinh học. Các vườn ươm sẽ gắn kết chặt chẽ với doanh nghiệp và trường đại học, từ đó đưa các ý tưởng, sáng tạo, kết quả của các công trình nghiên cứu vào sử dụng. Bên cạnh đó cần triển khai các hoạt động dự báo nhu cầu nhân lực và nhu cầu đào tạo theo cơ cấu ngành nghề và trình độ đào tạo phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo từng giai đoạn.

Thứ hai, tập trung đầu tư phát triển các ngành, sản phẩm mũi nhọn

Cần xác định các ngành CBCT mũi nhọn tập trung đầu tư phát triển vì đó là những ngành quan trọng, có lợi thế so sánh và có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường trong nước và quốc tế nhằm lôi kéo toàn bộ ngành công nghiệp CBCT cùng phát triển theo. Đó là những ngành công nghệ lõi của CMCN 4.0 phải đặc biệt lưu ý để nghiên cứu, ứng dụng tạo nền tảng cho toàn bộ nền kinh tế nhằm tạo đột phá đi tắt, đón đầu, nâng cao năng lực cạnh tranh ngành CBCT.

Đối với sản phẩm nông, lâm nghiệp và thủy sản: Đẩy mạnh cơ cấu lại nông nghiệp theo hướng tổ chức sản xuất hàng hóa lớn gắn với chế biến và thị trường tiêu thụ; thúc đẩy phát triển cánh đồng lớn với cơ giới hóa đồng bộ trong các khâu của chuỗi giá trị nông sản; đầu tư phát triển ngành công nghiệp chế tạo máy và thiết bị phụ trợ cho ngành nông nghiệp theo hướng chuyên sâu; hình thành và phát triển hệ thống logistics đồng bộ nhằm nâng cao giá trị và sức cạnh tranh hàng nông sản; tăng cường ứng dụng, chuyển giao tiến bộ, khoa học công nghệ vào chế biến, bảo quản nông sản và cơ giới hóa nông nghiệp; đào tạo nguồn nhân lực kỹ thuật chuyên sâu và nhân lực quản trị cho phát triển cơ giới hóa và công nghiệp chế biến nông sản; rà soát, hoàn thiện và bảo đảm nguồn lực thực hiện các cơ chế, chính sách về đất đai, tín dụng, thuế, bảo hiểm nông nghiệp và thủ tục hành chính nhằm thu hút mạnh mẽ hơn nữa đầu tư của khu vực kinh tế tư nhân; tiếp tục hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng, đa dạng hóa thị trường xuất khẩu nông sản, đồng thời khai thác tốt thị trường tiêu thụ nông sản trong nước.

Đối với sản phẩm dệt may: Chính sách hỗ trợ, đổi mới công nghệ ngành dệt may Việt Nam và phát triển nguyên liệu trong nước Nhà nước cần định hướng đầu tư vốn vào ngành dệt may theo hướng đối với những dự án đầu tư vào ngành dệt may xuất khẩu, ưu tiên cho các loại hình kinh tế ngoài Nhà nước; đối với những dự án đầu tư vào ngành sợi, dệt, in, nhuộm, hoàn tất, cơ khí dệt may đòi hỏi vốn đầu tư lớn thì ưu tiên cho các doanh nghiệp Nhà nước lớn được sử dụng vốn ngân sách để đầu tư và kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực này. Chính phủ cần thu hút, kêu gọi đầu tư đặc biệt là vào ngành công nghiệp sản xuất nguyên phụ liệu cho ngành dệt may, chỉ có thế mới có thể tăng lợi nhuận cho ngành dệt may Việt Nam.

Đối với công nghiệp điện tử: Xây dựng biện pháp bảo vệ thị trường điện tử tiêu dùng (như thuế phòng vệ, hàng rào kỹ thuật, chống gian lận thương mại, hàng giả và hàng nhập lậu…) đồng thời tập trung hỗ trợ một số doanh nghiệp triển vọng của Việt Nam trong lĩnh vực điện tử nhằm tạo cơ hội cho các doanh nghiệp này phát triển, đóng vai trò dẫn dắt thị trường điện tử trong nước, đặc biệt là các sản phẩm điện - điện tử gia dụng. Tiếp tục hỗ trợ hoạt động lắp ráp của tập đoàn Samsung tại Việt Nam; xây dựng hệ thống nhà cung ứng nội địa cung cấp nguyên liệu cho hoạt động lắp ráp sản phẩm hoàn chỉnh.

Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô tô: Tận dụng cơ hội thị trường từ chính sách đã ban hành, tập trung hỗ trợ để thúc đẩy nhanh các dự án sản xuất, lắp ráp ô tô của các doanh nghiệp lớn như Toyota, Mitsubishi... Nghiên cứu các cơ chế chính sách thu hút đầu tư từ các tập đoàn đa quốc gia đầu tư các dự án có quy mô lớn tại Việt Nam, đặc biệt tập trung vào các thương hiệu và dòng xe chưa có tại khu vực ASEAN, nhằm tạo điều kiện để các doanh nghiệp trong nước tham gia sâu nhất vào chuỗi sản xuất ô tô đa quốc gia. Hỗ trợ để thúc đẩy các dự án sản xuất của các Tập đoàn lớn như Công ty cổ phần ô tô Trường Hải (Thaco), Công ty cổ phần Tập đoàn Thành Công, Vinfast và các dự án khác. Đây là những tín hiệu tốt cho việc gia tăng sản lượng ô tô sản xuất, lắp ráp trong nước trong thời gian tới. Xây dựng thí điểm chuỗi cung ứng ngành ô tô cho các doanh nghiệp sản xuất và lắp ráp ô tô trong và ngoài nước.

Thứ ba, nâng cao năng lực của doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ.

Cần xây dựng và vận hành hiệu quả các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng từ vốn đầu tư trung hạn của Trung ương và địa phương trên cơ sở nhu cầu, mục tiêu phát triển và nguồn lực sẵn có. Có chính sách phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp CBCT theo hướng ưu tiên phát triển đổi mới sáng tạo, nghiên cứu và phát triển (R&D), chuyển giao công nghệ, nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm và năng lực cạnh tranh, tạo cơ hội tham gia sâu vào chuỗi sản xuất toàn cầu. Hình thành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, ưu đãi về tài chính, cơ sở hạ tầng, cơ sở vật chất nhằm nâng cao năng lực của các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng. Các trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng có vai trò kết nối các trung tâm tại địa phương, hình thành hệ sinh thái chung về công nghệ và sản xuất công nghiệp.

Thứ tư, thu hút FDI chất lượng cao, tăng cường liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp chế biến trong nước.

Cần hướng đến các nhà đầu tư có động lực phát triển dựa vào lao động kỹ năng tay nghề cao, công nghệ sử dụng nguồn lực tiết kiệm thay vì dựa vào chi phí nhân công thấp, dịch vụ kết cấu hạ tầng chi phí thấp; có tiêu chí sàng lọc, lựa chọn nhà đầu tư thống nhất từ Trung ương đến địa phương để bảo đảm thu hút đầu tư theo đúng nhu cầu của nền kinh tế. Tiếp tục triển khai hiệu quả các hoạt động kết nối doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp FDI, xây dựng năng lực giúp doanh nghiệp trong nước tham gia chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI.

Xúc tiến đầu tư cần chủ động, có mục tiêu để thu hút được những nhà đầu tư mà nền kinh tế mong muốn, thay vì thụ động, mở cửa thị trường chờ nhà đầu tư tới. Phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo cho các doanh nghiệp chế biến, chế tạo

Đổi mới sáng tạo, phát triển và ứng dụng khoa học - công nghệ tiên tiến, nhất là công nghệ cao là một nội dung cốt lõi của quá trình công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, gắn với xây dựng quốc gia khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững đất nước. Tăng cường hệ thống đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp, đặt doanh nghiệp vào trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo theo những nội dung: Các doanh nghiệp theo đuổi việc đổi mới sáng tạo và ứng dụng kết quả R&D của các trường đại học và các cơ quan nghiên cứu nhà nước vào trung tâm của hệ thống đổi mới sáng tạo quốc gia, tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng và phát triển. Cần ưu tiên tăng cường năng lực sáng tạo nội bộ trong các loại hình doanh nghiệp, từ năng lực thiết kế, tới chế tạo, marketing, công nghệ thông tin và R&D.

Đổi mới sáng tạo đòi hỏi phải có điều kiện về khuôn khổ pháp lý thuận lợi và ổn định. Việt Nam đã đạt được một số tiến bộ nhưng vẫn cần tiếp tục cải thiện hơn nữa, bao gồm việc đổi mới khuôn khổ pháp lý và doanh nghiệp nhà nước, khuyến khích cạnh tranh và tạo điều kiện tiếp cận các nguồn lực tài chính dễ dàng.

----------------------------------------------------------------------------

TÀI LIỆU THAM KHẢO

* Tổng cục Thống kê (2021): Chuyên đề “Công nghiệp chế biến, chế tạo - Động lực tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 2011-2020”.

Tạp chí Doanh nghiệp và Thương mại - Tháng 9-10/2021

Đăng ngày: 16/10/2021 , 16:10 GMT+7

Tin liên quan

Tin Khác