Kịch bản, giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam 6 tháng đầu năm 2021

Đăng ngày: 14/02/2021 , 08:00 GMT+7

Thực hiện chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ tại Văn bản số 107/VPCP-TH ngày 29/01/2021, trên cơ sở đánh giá tình hình kinh tế - xã hội tháng 01/2021 và dự báo 6 tháng đầu năm 2021, tại phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 01/2021, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư Nguyễn Chí Dũng đã báo cáo kết quả về xây dựng kịch bản, giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Việt Nam 06 tháng đầu năm 2021. 

Ảnh: Chinhphu.vn

Bộ Kế hoạch và Đầu tư cập nhật kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2021

Căn cứ vào tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam năm 2020, kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh tháng 01/2021, bối cảnh kinh tế - xã hội trong nước, quốc tế và hiệu quả điều hành của Chính phủ trong triển khai thực hiện mục tiêu kép vừa khống chế dịch bệnh vừa tăng trưởng kinh tế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư đã cập nhật kịch bản tăng trưởng kinh tế năm 2021.

Cụ thể, về dự báo tăng trưởng các ngành, lĩnh vực chủ yếu, khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản chịu ảnh hưởng của diễn biến phức tạp về thời tiết, dịch bệnh. Dịch tả lợn châu Phi tuy đã cơ bản được kiểm soát nhưng còn xảy ra quy mô nhỏ ở nhiều địa phương. Dịch cúm gia cầm ở các nước trong khu vực đang bùng phát, lây lan trên diện rộng. Tình hình xâm nhập mặn ở đồng bằng sông Cửu Long mùa khô năm 2020-2021 theo dự báo sẽ ở mức cao. Nếu dịch Covid-19 được khống chế kịp thời trong quý I, tăng trưởng ngành nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2021 ước đạt 2,78%.

Hoạt động sản xuất công nghiệp chưa thể phục hồi nhanh như trước khi chịu tác động của dịch Covid-19, các doanh nghiệp còn đối diện với tình trạng thiếu nguyên liệu sản xuất, đặc biệt thị trường xuất khẩu hàng hóa vẫn chịu nhiều tác động do các nền kinh tế lớn trên thế giới phục hồi chậm, hạn chế nhập khẩu vì giãn cách xã hội, đóng cửa biên giới và gồng mình chống dịch. Nếu dịch Covid-19 được khống chế kịp thời trong quý I, tăng trưởng ngành công nghiệp và xây dựng năm 2021 ước đạt 9%.

Khu vực dịch vụ còn chịu ảnh hưởng trực tiếp tác động tiêu cực của dịch Covid-19, nhất là sau thời gian dài được khống chế không lây nhiễm trong cộng đồng thì cuối tháng 01/2021 đã xuất hiện tại một số tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. Nếu dịch Covid-19 được khống chế kịp thời trong quý I, tăng trưởng ngành dịch vụ năm 2021 ước đạt 5,48%.

Nếu dịch Covid-19 được khống chế kịp thời trong quý I, ước tính GDP quý I/2021 tăng 4,46%, thấp hơn 0,66 điểm phần trăm so với mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết 01. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng GDP năm 2021 là 6,5% thì quý II cần đạt mục tiêu đặt ra trong Nghị quyết số 01/NQ-CP với tăng trưởng 7,11% và quý III, quý IV phải phấn đấu đạt mức tăng trưởng cao hơn so với NQ01, trong đó quý III tăng 6,73% (cao hơn 01/NQ-CP 0,02 điểm phần trăm) và quý IV tăng 7,04% (cao hơn 01/NQ-CP 0,37 điểm phần trăm).

Ưu tiên hàng đầu là tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh

Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng cho biết, để đạt được mục tiêu tăng trưởng năm 2021, về phòng, chống, kiểm soát đại dịch Covid-19, ưu tiên hàng đầu là tập trung phòng chống, kiểm soát tốt dịch bệnh để bảo đảm sức khỏe của người dân, tạo nền tảng để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế tối đa tác động đến nền kinh tế. Khẩn trương, quyết liệt sàng lọc, truy vết trên diện rộng để xác định nguồn gốc và các ổ dịch; thực hiện nghiêm việc cách ly, khoanh vùng khu vực có dịch bệnh, không để dịch lây lan rộng.

Đẩy mạnh tuyên truyền, chủ động công khai thông tin chính xác, kịp thời, bảo đảm ổn định tâm lý, niềm tin trong nhân dân, tạo sự đồng lòng, chung tay chống dịch cùng chính quyền các cấp và cả hệ thống chính trị; cung cấp đủ các hàng hoá thiết yếu cho người dân, không để xảy ra tình trạng tích trữ hàng hoá lương thực, thực phẩm. Thúc đẩy hợp tác nghiên cứu, đàm phán để sớm triển khai áp dụng vắc-xin; xây dựng phương án phân phối vắc-xin, ưu tiên các khu vực có nguy cơ cao, tập trung đông dân cư.

Để ổn định kinh tế vĩ mô, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, cần tiếp tục thực hiện chính sách tài khóa, tiền tệ mở rộng hợp lý để ổn định kinh tế vĩ mô, kích thích tăng trưởng kinh tế. Đánh giá kỹ dư địa của chính sách tiền tệ, tài khóa để xây dựng, ban hành các chính sách hỗ trợ cho các đối tượng còn gặp khó khăn do tác động bởi dịch Covid-19, đặc biệt là ngành dịch vụ, du lịch, vận tải.

Tiếp tục hoàn thiện, nâng cao chất lượng thể chế, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thông thoáng thuận lợi. Thực hiện đầy đủ, nhất quán và hiệu quả các nhiệm vụ, giải pháp đề ra tại Nghị quyết số 02/NQ-CP. Hoàn thiện thể chế, chính sách thu hút đầu tư nước ngoài có chọn lọc, lấy chất lượng, hiệu quả, công nghệ, bảo vệ môi trường và đổi mới sáng tạo là tiêu chí đánh giá chủ yếu. Rà soát lại các ưu tiên, ưu đãi cho các doanh FDI; Tập trung ưu đãi cho những doanh nghiệp công nghệ cao có chuyển giao công nghệ, gắn kết với doanh nghiệp trong nước.

Tập trung thúc đẩy tăng trưởng các ngành, lĩnh vực chủ yếu, trong đó, cơ cấu lại ngành Nông, lâm nghiệp và thủy sản một cách thiết thực, hiệu quả, gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Thực hiện đồng bộ các đề án, kế hoạch cơ cấu lại các tiểu ngành, lĩnh vực, chuyển đổi cơ cấu sản xuất kinh doanh cây trồng, vật nuôi... thích ứng với biến đổi khí hậu, nhất là ở vùng đồng bằng sông Cửu Long.

Tiếp tục tập trung tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, phục hồi kinh tế, cải cách quy trình, thủ tục để doanh nghiệp tiếp cận các chính sách hỗ trợ đơn giản, thuận tiện, kịp thời. Hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp trong việc tìm thị trường nhập khẩu nguyên, nhiên, vật liệu, phụ tùng, linh kiện thay thế nhằm vượt qua khó khăn do ảnh hưởng của dịch Covid-19. Đồng thời, ban hành và thực thi các giải pháp mang tính đột phá, tạo áp lực để các tổ chức kinh tế tiếp cận, ứng dụng công nghệ, từng bước nâng cao năng lực đổi mới, sáng tạo trong hoạt động sản xuất kinh doanh. Tập trung nâng cao năng suất lao động, năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Các doanh nghiệp tăng cường ứng dụng công nghệ số trong các hoạt động sản xuất, kinh doanh...

Về thương mại và dịch vụ, tập trung, chú trọng phát triển thị trường trong nước theo chiều sâu. Trước mắt, bảo đảm cân đối cung cầu hàng hóa thiết yếu trong dịp Lễ, Tết, nhất là các mặt hàng thực phẩm; triển khai hiệu quả Chương trình Bình ổn thị trường, đôn đốc các doanh nghiệp chủ động nguồn hàng, đẩy mạnh cung ứng hàng hóa bảo đảm về số lượng, chất lượng với mức giá ổn định.

Đẩy nhanh việc hoàn thiện thể chế, tạo thuận lợi để phát triển mạnh thương mại điện tử. Thúc đẩy phối hợp với các đơn vị thanh toán, khuyến khích ứng dụng thanh toán điện tử. Phối hợp với các đối tác nước ngoài để hỗ trợ các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam mở rộng thị trường đầu ra qua hình thức thương mại điện tử xuyên biên giới. Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ 4.0 để thúc đẩy quản lý theo chuỗi, tạo điều kiện thuận lợi cho người tiêu dùng truy xuất nguồn gốc.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế, đa dạng hóa thị trường xuất nhập khẩu, khai thác tối đa tiềm năng, lợi thế của các hiệp định FTA đã ký kết. Chủ động giải quyết hài hòa quan hệ thương mại với các đối tác lớn. Thực hiện nghiên cứu, đánh giá tác động của hiệp định RCEP, UKVFTA đến các ngành, lĩnh vực sản xuất, xuất khẩu của Việt Nam. Phổ biến thông tin rộng rãi về hiệp định, cách thức, điều kiện tận dụng ưu đãi…, đặc biệt với các doanh nghiệp thuộc ngành, lĩnh vực bị ảnh hưởng. Tăng cường các biện pháp phòng vệ, khẩn trương xây dựng Hệ thống cảnh báo sớm về phòng vệ thương mại để bảo vệ sản xuất trong nước, hỗ trợ doanh nghiệp ứng phó với các vụ kiện phòng vệ thương mại của nước ngoài.

Thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư NSNN, thu hút vốn đầu tư xã hội, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế

Để thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư NSNN, thu hút vốn đầu tư xã hội, tạo động lực cho tăng trưởng kinh tế, các Bộ, cơ quan trung ương và địa phương cần tiếp tục triển khai thực hiện nghiêm các giải pháp về giải ngân vốn đầu tư công đã đề ra về thúc đẩy giải ngân vốn đầu tư công tại các Nghị quyết của Chính phủ.

Trong đó: Phân bổ, giao kế hoạch vốn đầu tư ngân sách nhà nước ngay từ đầu năm kế hoạch cho các dự án đã đủ thủ tục đầu tư, đủ điều kiện giải ngân; Chỉ đạo các chủ đầu tư khẩn trương hoàn thành các thủ tục phê duyệt thiết kế, dự toán, thủ tục đấu thầu; Chủ động xây dựng ngay kế hoạch giải ngân theo từng tháng, từng Quý; trong đó Quý I hoàn thành việc thu hồi vốn ứng trước của kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2021; Quý II hoàn thành việc giải ngân các dự án được phép kéo dài kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2020 sang năm 2021; Quý III giải ngân 80% kế hoạch đầu tư vốn ngân sách nhà nước năm 2021 của các dự án chuyển tiếp dự kiến hoàn thành trong năm 2021 và hoàn thiện thủ tục đầu tư dự án khởi công mới dự kiến bố trí kế hoạch đầu tư năm 2021 và lũy kế đến Quý IV phấn đấu giải ngân 90% kế hoạch năm 2021 được giao; Phân công lãnh đạo chịu trách nhiệm theo dõi tiến độ thực hiện và giải ngân của từng dự án theo kế hoạch đề ra, gắn trách nhiệm của Lãnh đạo, tổ chức, cá nhân với kết quả giải ngân của từng dự án được phân công.

Căn cứ dự kiến kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 được Thủ tướng Chính phủ thông báo, các bộ, cơ quan trung ương và địa phương chỉ đạo các đơn vị trực thuộc tập trung lựa chọn danh mục dự án dự kiến triển khai trong giai đoạn 2021-2025, hoàn thiện thủ tục lập, thẩm định, phê duyệt chủ trương đầu tư, tổng hợp vào kế hoạch đầu tư công trung hạn giai đoạn 2021-2025 cấp mình, gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư tổng hợp để báo cáo Chính phủ, trình Quốc hội tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa XV xem xét, quyết định.

Hoàn thiện Báo cáo đề xuất chủ trương đầu tư 02 Chương trình mục tiêu quốc gia là Chương trình mục tiêu quốc gia Xây dựng nông thôn mới và Giảm nghèo và an sinh xã hội bền vững để trình Quốc hội kỳ họp thứ nhất khóa XV xem xét quyết định chủ trương đầu tư, trong đó cần rà soát nội dung, chính sách, đối tượng, địa bàn thụ hưởng, lồng ghép các mục tiêu cần ưu tiên trong các chương trình đề tránh chồng chéo, phân tán, thiếu tập trung, hiệu quả không cao để phê duyệt…

Tiếp tục rà soát hành lang và khuôn khổ pháp lý về đầu tư, ngân sách đặc biệt là vốn ODA một cách đồng bộ và minh bạch, trong đó đổi mới công tác quản lý, giải ngân và sử dụng vốn ODA, cần xác định thứ tự ưu tiên đầu tư các dự án ODA gắn liền với đảm bảo nguồn vốn đối ứng cho các dự án này, quy trình tổng hợp phân bổ vốn ODA gắn liền với vốn đối ứng. Đẩy mạnh các dự án đầu tư theo hình thức đối tác công tư để khơi thông vốn đầu tư từ khu vực tư nhân, đặc biệt là nhà đầu tư nước ngoài cho các dự án hạ tầng giao thông...

Đồng thời, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và thực hiện chuyển đổi số trên mọi cấp độ từ quốc gia tới địa phương và doanh nghiệp. Trước mắt cần tập trung thực hiện Chương trình hỗ trợ doanh nghiệp chuyển đổi số giai đoạn 2021-2025 cho hơn 800 nghìn doanh nghiệp Việt Nam, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đẩy nhanh tiến độ xây dựng Trung tâm đổi mới sáng tạo quốc gia (NIC) tại Khu công nghệ cao Hòa Lạc, sau đó là tại các thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, để “hoàn chỉnh vòng kết nối”; quy tụ các doanh nghiệp, tập đoàn công nghệ lớn trong và ngoài nước, cung cấp các cơ sở nghiên cứu, không gian làm việc, thử nghiệm sản phẩm và điều kiện hạ tầng tốt nhất phục vụ cho nghiên cứu phát triển. Tập trung hoàn thiện, triển khai các đề án lớn về kinh tế chia sẻ, kinh tế ban đêm, trung tâm tài chính quốc tế tại Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng./.

Nguồn: Cổng TTĐT Bộ Kế hoạch và Đầu tư

Link gốc: http://www.mpi.gov.vn/Pages/tinbai.aspx?idTin=48790&idcm=188
Đăng ngày: 14/02/2021 , 08:00 GMT+7

Tin liên quan

Tin Khác