
Tại buổi toạ đàm “Mở hướng đi mới cho công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng” mới diễn ra ngày 3/11/2025, ông Chu Việt Cường, Giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển công nghiệp, Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) cho biết, hiện nay trong các dự án năng lượng, đặc biệt là điện gió, điện mặt trời, thủy điện và nhiệt điện, tỷ lệ nội địa hóa đã có chuyển biến rõ rệt, nhưng chưa đạt được kỳ vọng như Chính phủ mong muốn.
Tại Việt Nam, lĩnh vực điện gió mới chỉ nội địa hóa được khoảng 25 - 30% giá trị thiết bị; trong lĩnh vực năng lượng mặt trời, tỷ lệ nội địa hóa đạt khoảng 35 - 40%, tập trung vào sản xuất khung giá đỡ, dây dẫn, tủ điện, inverter và một phần module PV. Mặc dù Việt Nam hiện là nhà sản xuất pin năng lượng mặt trời đứng trong Top 10 thế giới nhưng chuỗi giá trị vật liệu bán dẫn, wafer, cell vẫn phụ thuộc vào nhập khẩu. Trong khi đó, tỷ lệ nội địa hóa trong lĩnh vực năng lượng tái tạo tại Thái Lan là 60 - 65%, Malaysia là 55 - 60%.
Theo ông Cường, nguyên nhân là do hạn chế về tài chính, công nghệ và trang thiết bị hiện đại. Đặc biệt, nguồn nhân lực chất lượng cao của ngành đang còn thiếu rất nhiều. Một hạn chế nữa là rào cản về kỹ thuật “cản” các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành năng lượng có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của toàn cầu.
Tham gia đóng góp ý kiến tại Tọa đàm, các chuyên gia kinh tế cũng như đại diện các doanh nghiệp đều cho rằng, doanh nghiệp trong nước hiện chủ yếu thực hiện ở các công đoạn có giá trị gia tăng thấp, các cấu phần đơn giản, trong khi các cấu phần cốt lõi (tuabin, máy phát, hệ thống điều khiển…) phần lớn vẫn phải nhập khẩu. Do vậy, muốn phát triển công nghiệp hỗ trợ, ngành năng lượng cần đảm bảo 3 ba trụ cột quan trọng. Đó là: năng lực quản trị, năng lực công nghệ và nguồn nhân lực.
Bên cạnh đó, để doanh nghiệp Việt Nam tham gia sâu vào chuỗi công nghiệp hỗ trợ cho ngành năng lượng, cần tập trung vào 4 yếu tố trọng tâm. Theo TS. Vũ Văn Khoa, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Cơ khí (Bộ Công Thương),trước hết, Chính phủ và các bộ, ngành cần ban hành sớm hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật cho thiết bị năng lượng và linh kiện cơ khí trong nước, tạo cơ sở pháp lý để sản phẩm Việt có thể được sử dụng trong các dự án. Đồng thời, cần quy định tỷ lệ nội địa hóa bắt buộc, hình thành dung lượng thị trường đủ lớn để doanh nghiệp mạnh dạn đầu tư.
Thứ hai, đơn giản hóa thủ tục, rút ngắn quy trình phê duyệt sản phẩm đạt chuẩn, giúp doanh nghiệp nhanh chóng thương mại hóa kết quả nghiên cứu, đổi mới sáng tạo.
Thứ ba, tăng cường hỗ trợ tài chính thông qua các quỹ đổi mới sáng tạo, mở rộng quỹ đất phát triển trung tâm R&D, đặc biệt với các doanh nghiệp, viện nghiên cứu đạt chuẩn quốc tế trong lĩnh vực năng lượng.
Thứ tư, cần đẩy mạnh liên kết giữa doanh nghiệp trong nước và FDI, thúc đẩy chuyển giao công nghệ, đồng thời quy hoạch các cụm công nghiệp chế tạo năng lượng tại các vùng có lợi thế như Bình Thuận, Ninh Thuận, Bà Rịa – Vũng Tàu để giảm chi phí logistics và nâng sức cạnh tranh.
Đối với doanh nghiệp, cần tập trung nguồn lực vào sản phẩm có thị trường lớn, đầu tư nâng cấp công nghệ, máy móc, quản trị và nhân lực. Doanh nghiệp phải tuân thủ chuẩn công nghiệp xanh, chứng chỉ ngành, xây dựng phòng thử nghiệm đạt chuẩn quốc tế và chủ động liên kết chuỗi cung ứng với các tập đoàn trong nước và FDI để từng bước tham gia sâu vào chuỗi giá trị năng lượng toàn cầu./.
PV.













