Nâng cao tỷ lệ nội địa hóa từ công nghiệp hỗ trợ: Mắt xích trọng yếu trong phát triển ngành công nghiệp ô tô Việt Nam

Đăng ngày: 25/10/2025 , 09:15 GMT+7

Theo mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp ô tô, tỷ lệ nội địa hóa đến năm 2025 là 40 - 45% và năm 2030 là 50 - 55%, trở thành lĩnh vực đóng góp ngày càng quan trọng vào sự phát triển bền vững của nền công nghiệp ô tô và nền kinh tế đất nước.

Môi trường trong khu vực và trên thế giới cho thấy tầm quan trọng của việc nâng cao tỷ lệ nội địa hóa ngành công nghiệp ô tô Việt Nam: Asean là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng của ngành công nghiệp phụ trợ tô tô toàn cầu; bối cảnh các biến động địa chính trị phức tạp trên thế giới càng cho thấy tầm quan trọng của việc chủ động trong các chuỗi cung ứng sản xuất, đặc biệt là các ngành có giá trị cao như ô tô.

Với nỗ lực của các doanh nghiệp và những chính sách hỗ trợ kịp thời từ Chính phủ, ngành công nghiệp ô tô ở Việt Nam trong những năm gần đây có những tiến bộ rõ rệt vượt bậc, đã có những thương hiệu lớn đáp ứng một phần nhu cầu sử dụng trong nước đồng thời đưa được sản phẩm xuất khẩu ra nước ngoài. Tuy nhiên, tỷ lệ nội địa hóa trong ngành hiện vẫn chưa đạt như kỳ vọng.

Kim Long Motor, một hãng xe Việt, đang hướng đến giấc mơ đưa xe ô tô thương hiệu Việt với tỉ lệ nội địa hóa ít nhất 70–80%, thậm chí cao hơn. Ảnh: Báo Chính phủ

Chính sách thúc đẩy ngành công nghiệp phụ trợ ô tô từ Chính phủ

Xác định sự phát triển mạnh mẽ của công nghiệp hỗ trợ sẽ là nền tảng vững chắc giúp ngành công nghiệp ô tô Việt Nam vươn mình ra thị trường quốc tế, khẳng định vị thế trong chuỗi giá trị toàn cầu, trong Kế hoạch phát triển công nghiệp giai đoạn 2030 – 2045, ngành công nghiệp phụ trợ nói chung và công nghiệp hỗ trợ ô tô nói riêng được xác định là trọng tâm.

Theo đó, Chính phủ tập trung vào hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan. Các ban ngành liên quan đang phối hợp chặt chẽ để xây dựng một hành lang pháp lý thuận lợi, khuyến khích đầu tư và tạo điều kiện cho ngành công nghiệp phụ trợ ô tô phát triển nhanh chóng. Các chính sách ưu đãi về thuế cũng là công cụ quan trọng được Nhà nước sử dụng để hỗ trợ ngành công nghiệp phụ trợ ô tô. Việc duy trì và triển khai các chương trình ưu đãi thuế nhập khẩu đối với linh kiện, phụ tùng phục vụ sản xuất nội địa được tiếp tục thực hiện. Bên cạnh đó, việc nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định về thuế suất tiêu thụ đặc biệt theo hướng ưu đãi cho các sản phẩm có tỷ lệ nội địa hóa cao cũng đang được cân nhắc. Những đề xuất chính sách cho giai đoạn 2030 – 2045 đang được xem xét, bao gồm việc cải thiện môi trường đầu tư, phát triển doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chuyên môn cao và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong sản xuất linh kiện.

Để tạo ra môi trường cạnh tranh công bằng và lành mạnh cho thị trường ô tô trong nước, Bộ Công Thương đang áp dụng các biện pháp chống gian lận thương mại và xây dựng các hàng rào kỹ thuật phù hợp. Những biện pháp này nhằm đảm bảo xe sản xuất, lắp ráp trong nước có cơ hội cạnh tranh bình đẳng với xe nhập khẩu. Song song với đó, Bộ Công Thương tích cực đẩy mạnh các chương trình, dự án hợp tác quốc tế nhằm mở rộng thị trường đầu ra cho các sản phẩm phụ tùng sản xuất tại Việt Nam, đồng thời tiếp thu chuyển giao công nghệ hiện đại từ các nước tiên tiến. Các hoạt động kết nối, giao thương giữa doanh nghiệp Việt Nam và đối tác quốc tế cũng được tăng cường nhằm giúp doanh nghiệp nội địa tham gia sâu hơn vào chuỗi sản xuất toàn cầu.

Tình hình nội địa hóa ngành công nghiệp ô tô Việt Nam hiện nay

Nội địa hóa ô tô không chỉ phục vụ cho chính ngành ô tô, mà còn có vai trò tạo hiệu ứng lan tỏa mạnh mẽ cho toàn bộ nền công nghiệp, có khả năng thúc đẩy cơ khí chính xác, luyện kim – vật liệu mới, công nghệ phần mềm – điện tử, và cả công nghiệp quốc phòng. Hiếm có ngành nào hội tụ được sức lan tỏa sâu rộng như vậy.

Tuy nhiên, số lượng nhà sản xuất, cung ứng trong nước cho ngành công nghiệp ô tô đến nay vẫn khá khiêm tốn.

Mục tiêu phát triển của ngành công nghiệp ô tô, năm 2020, tỷ lệ nội địa hóa là 30 - 40%, năm 2025 là 40 - 45% và năm 2030 là 50 - 55%. Đến nay, mục tiêu đề ra cho xe thương mại, bao gồm xe tải nhẹ dưới 7 tấn, xe khách từ 25 chỗ ngồi trở lên và các loại xe chuyên dụng, đã cơ bản đạt được. Tỷ lệ nội địa hóa đối với các dòng xe này khá khả quan, dao động từ 45% đến 55%, vượt chỉ tiêu quy hoạch ban đầu và đáp ứng được nhu cầu thị trường trong nước. Tuy nhiên, đối với phân khúc xe ô tô cá nhân, đặc biệt là xe dưới 9 chỗ ngồi, trong khi mục tiêu đặt ra là đạt tỷ lệ nội địa hóa từ 30% đến 40% vào năm 2020, nhưng con số thực tế đến nay mới đạt bình quân khoảng 7% đến 10% (thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực ASEAN. Ví dụ tỷ lệ này ở Thái Lan, Indonesia và Malaysia đều đạt trung bình 65% đến 70%).

Hiện Việt Nam mới chủ yếu sản xuất được các phụ tùng, linh kiện có công nghệ giản đơn, như ghế ngồi, kính, săm lốp... Những linh kiện quan trọng, có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao như hệ thống phanh, ly hợp, hộp số, hệ thống lái... vẫn phải nhập khẩu hoàn toàn. Ngành công nghiệp ô tô nước ta đang nhập khẩu 80% linh kiện sản xuất, chi phí lắp ráp ô tô ở Việt Nam cũng cao hơn 10 - 20% so với các nước trong khu vực, đẩy giá bán xe lắp ráp trong nước cao hơn khoảng 20% so với các nước trong khu vực. Tình trạng này không chỉ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh của xe sản xuất trong nước mà còn hạn chế khả năng tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu của các doanh nghiệp Việt Nam.

Nguyên nhân tỷ lệ nội địa hóa ô tô con ở Việt Nam còn thấp

Ngành sản xuất ô tô nước ta không đạt được lợi thế về quy mô. Quy mô thị trường nhỏ dẫn đến chi phí sản xuất cao, ngành công nghiệp hỗ trợ yếu kém về công nghệ và quy mô, khó đáp ứng tiêu chuẩn của các hãng lớn, cùng với sự thiếu ổn định và thiếu tính dài hạn của một số chính sách.

Bên cạnh đó, mặc dù đã có nhiều tiến bộ song số lượng các doanh nghiệp Việt Nam sản xuất linh kiện, phụ tùng đáp ứng được tiêu chuẩn khắt khe của các hãng ô tô toàn cầu còn rất ít. Các doanh nghiệp này thường có quy mô nhỏ, công nghệ sản xuất lạc hậu và khó đáp ứng yêu cầu về độ chính xác, chất lượng và sản lượng lớn theo yêu cầu của các nhà lắp ráp lớn.

Chính sách cũng là một yếu tố quan trọng cần được cải thiện. Sự thiếu ổn định và thiếu tính dài hạn của các chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp ô tô Việt Nam gây khó khăn cho các doanh nghiệp trong việc lập kế hoạch đầu tư dài hạn. Việc thay đổi liên tục trong các quy định về thuế, phí hoặc tiêu chuẩn kỹ thuật có thể tạo ra môi trường kinh doanh không chắc chắn, làm giảm động lực đầu tư vào sản xuất linh kiện và lắp ráp trong nước.

Giải pháp nâng cao tỷ lệ nội địa hóa ô tô

Để nâng cao tỷ lệ nội địa hóa trong ngành công nghiệp ô tô Việt Nam, cần có những giải pháp đồng bộ từ phía Nhà nước và doanh nghiệp: đẩy mạnh phát triển công nghiệp hỗ trợ thông qua ưu đãi đầu tư và công nghệ, thu hút FDI vào sản xuất linh kiện, hoàn thiện và ổn định chính sách (đặc biệt là thuế) để khuyến khích sản xuất trong nước, và tăng cường đầu tư vào R&D để nâng cao năng lực công nghệ của doanh nghiệp Việt Nam.

Việc nâng cao năng lực công nghệ và nghiên cứu phát triển (R&D) của các doanh nghiệp trong nước cũng là yếu tố then chốt. Cần có sự đầu tư vào việc ứng dụng công nghệ sản xuất hiện đại, tự động hóa và nâng cao chất lượng sản phẩm để đáp ứng được yêu cầu ngày càng cao của các hãng ô tô. Sự hợp tác giữa doanh nghiệp, viện nghiên cứu và các trường đại học cần được tăng cường để tạo ra những đột phá về công nghệ và vật liệu.

Để khuyến khích các doanh nghiệp trong nước đầu tư vào sản xuất linh kiện, phụ tùng ô tô, đặc biệt là các bộ phận có giá trị cao và độ phức tạp kỹ thuật, cần có sự hỗ trợ về vốn, công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho ngành này.

Để thu hút FDI vào lĩnh vực sản xuất linh kiện ô tô, thu hút các công ty đa quốc gia có tiềm năng và kinh nghiệm trong sản xuất phụ tùng quy mô lớn, đáp ứng tiêu chuẩn toàn cầu, chính phủ cần tạo môi trường đầu tư hấp dẫn, ổn định và minh bạch để thu hút các nhà đầu tư này xây dựng nhà máy tại Việt Nam. Sự hiện diện của họ không chỉ tăng nguồn cung linh kiện nội địa mà còn giúp chuyển giao công nghệ và nâng cao năng lực cho các doanh nghiệp Việt Nam thông qua liên kết chuỗi cung ứng.

Việc hoàn thiện và ổn định các chính sách liên quan đến ngành công nghiệp ô tô Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Chính sách thuế, đặc biệt là thuế tiêu thụ đặc biệt, có thể được sử dụng như một công cụ để khuyến khích tỷ lệ nội địa hóa. Chẳng hạn, áp dụng mức thuế suất ưu đãi hơn đối với phần giá trị tạo ra trong nước của xe lắp ráp có thể giúp giảm giá thành và tăng tính cạnh tranh. Cần có một lộ trình phát triển dài hạn, rõ ràng và ít thay đổi để tạo niềm tin cho các nhà đầu tư.

Vũ Trìu

Đăng ngày: 25/10/2025 , 09:15 GMT+7

Tin liên quan