Chủ động, sáng tạo và quyết liệt trong hành động
Trong bối cảnh cả nước đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về “đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia”, ngành Khoa học và Công nghệ (KH&CN) tỉnh Thái Nguyên đã có bước tiến vượt bậc. Bằng tinh thần chủ động, sáng tạo và quyết liệt trong hành động, Sở KH&CN tỉnh Thái Nguyên đã trở thành đầu tàu tham mưu, triển khai nhiều chương trình, mô hình, dự án chuyển đổi số toàn diện; qua đó góp phần nâng cao năng lực quản lý nhà nước, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là giảm nghèo về thông tin cho đồng bào các dân tộc thiểu số ở vùng sâu, vùng xa của tỉnh.
9 tháng đầu năm 2025, Sở KH&CN Thái Nguyên đã quán triệt và triển khai nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Trung ương, của Tỉnh ủy, UBND tỉnh và hướng dẫn của Bộ KH&CN. Hệ thống kế hoạch, chương trình hành động được ban hành kịp thời, bám sát nhiệm vụ chính trị, tạo bước chuyển rõ nét trong hoạt động quản lý nhà nước về khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo.
Toàn ngành hiện đang quản lý 131 nhiệm vụ KH&CN cấp tỉnh và quốc gia; nhiều công trình, đề tài đã được nghiệm thu đúng tiến độ, trong đó có những nhiệm vụ thiết thực phục vụ chuyển đổi số, phát triển nông nghiệp công nghệ cao, và đổi mới sáng tạo trong doanh nghiệp địa phương. Đặc biệt, việc hoàn thành Bộ sách Lịch sử tỉnh Thái Nguyên là điểm nhấn quan trọng, góp phần gìn giữ giá trị tri thức và truyền thống văn hóa.
Công tác đổi mới sáng tạo được triển khai mạnh mẽ, tiêu biểu là Cuộc thi “Đổi mới sáng tạo – Vì Thái Nguyên thân yêu” lần thứ nhất, năm 2025. Đây là sân chơi tri thức nhằm khơi dậy tinh thần sáng tạo trong cán bộ, học sinh, sinh viên, doanh nghiệp, qua đó hình thành các ý tưởng, mô hình mới gắn với thực tiễn phát triển của địa phương.
Trong lĩnh vực chuyển đổi số, Thái Nguyên ghi nhận nhiều kết quả nổi bật. Theo hệ thống giám sát Nghị quyết 57, tỉnh đã hoàn thành 18/25 nhiệm vụ trọng tâm, số còn lại đang được triển khai đúng tiến độ. Tính đến tháng 10/2025, toàn tỉnh có 68/92 xã, phường đạt trạng thái xanh về chuyển đổi số, chỉ còn 3 xã trạng thái đỏ.

Ông Dương Hữu Bường – Giám đốc Sở KH&CN tỉnh Thái Nguyên ( ngoài cùng bên trái) tham quan không gian trưng bày các giải pháp công nghệ tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ I
Hạ tầng số tiếp tục được mở rộng, nâng cấp đồng bộ.
Hệ thống quản lý văn bản và điều hành đã được tổ chức lại theo mô hình chính quyền hai cấp, với 18.130 tài khoản cán bộ, công chức, viên chức. Từ tháng 7 đến nay, hệ thống ghi nhận gần 1 triệu lượt gửi, nhận văn bản điện tử, 100% văn bản hành chính được xử lý qua mạng.
Ứng dụng C-ThaiNguyen – nền tảng phản ánh hiện trường của người dân – đạt hơn 460 nghìn lượt tải, gần 5.000 phản ánh được tiếp nhận và xử lý. Đây là kênh kết nối hiệu quả giữa chính quyền với người dân, đặc biệt tại các xã miền núi, nơi người dân trước đây ít có cơ hội phản ánh, kiến nghị kịp thời. Song song với đó, hệ thống hội nghị truyền hình trực tuyến 2 cấp đã được triển khai tới 148 điểm cầu, đảm bảo 100% xã, phường có điểm cầu họp trực tuyến, tạo điều kiện thuận lợi cho chỉ đạo, điều hành và phổ biến chính sách tới vùng xa, vùng khó khăn.
Về hạ tầng viễn thông, Sở KH&CN phối hợp với các doanh nghiệp triển khai xóa điểm trắng sóng và vùng lõm thông tin. Thời điểm tháng 7/2025 trên địa bàn tỉnh có 55 thôn bản chưa có sóng di động, đến tháng 9 đã phủ sóng được 40/55 thôn bản, hiện nay còn 15 thôn chưa có sóng di động trong đó có 07 thôn chưa có điện lưới quốc gia. Đây chính là những địa bàn được xác định là trọng điểm giảm nghèo thông tin trong thời gian tới.
Công tác bưu chính, viễn thông trên địa bàn tỉnh tiếp tục được củng cố và phát triển. Hiện toàn tỉnh có 92/92 xã, phường đều được phủ điểm phục vụ bưu chính, viễn thông, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, đặc biệt là khu vực vùng cao, dễ dàng tiếp cận các dịch vụ hành chính công trực tuyến. Doanh thu viễn thông khoảng 1.300 tỷ đồng. Ngành bưu chính ghi nhận sản lượng ước đạt 22 triệu thư, kiện, doanh thu khoảng 400 tỷ đồng, tăng 10% so với cùng kỳ năm 2024. Những kết quả này khẳng định vai trò quan trọng của hạ tầng thông tin trong thúc đẩy kinh tế số và phát triển thương mại điện tử khu vực nông thôn.
Bên cạnh đó, hoạt động sở hữu trí tuệ và tiêu chuẩn đo lường chất lượng tiếp tục phát huy hiệu quả. Các sản phẩm mang chỉ dẫn địa lý như chè Tân Cương, miến dong Bắc Kạn được bảo hộ trong và ngoài nước, góp phần nâng cao giá trị thương hiệu địa phương. Đặc biệt, chỉ dẫn địa lý “Tân Cương” đã được bảo hộ tại Liên minh châu Âu (EVFTA) – dấu ấn khẳng định năng lực và uy tín của sản phẩm Thái Nguyên trên thị trường quốc tế.
Song song với đó, công tác bảo đảm an toàn bức xạ, hạt nhân và ứng dụng năng lượng nguyên tử được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo an toàn trong hoạt động y tế, công nghiệp và nghiên cứu.
Đáng chú ý, Trung tâm Công nghệ Thông tin và Truyền thông của tỉnh tiếp tục phát huy vai trò nòng cốt trong chuyển đổi số. Trung tâm không chỉ vận hành an toàn Trung tâm Dữ liệu tỉnh với hơn 12,5 triệu lượt truy cập, mà còn hỗ trợ triển khai các nền tảng công nghệ phục vụ công tác quản lý, giám sát, đặc biệt là trong chương trình xóa nhà tạm, nhà dột nát và nhà ở cho người có công ở 37 xã, phường thuộc tỉnh Bắc Kạn cũ. Dữ liệu được cập nhật trực tuyến, hiển thị qua bảng điều khiển số (dashboard),giúp lãnh đạo theo dõi tiến độ tức thời, giảm hoàn toàn việc báo cáo giấy. Đây là một đột phá thực chất trong giảm nghèo về thông tin, khi người dân vùng sâu có thể tiếp cận và tham gia các chương trình hỗ trợ xã hội qua nền tảng số.
Trong quý IV năm 2025, ngành KH&CN Thái Nguyên xác định tiếp tục đẩy mạnh quán triệt Nghị quyết số 57-NQ/TW, lấy đó làm kim chỉ nam cho mọi hoạt động của ngành. Trọng tâm là hoàn thiện hệ sinh thái đổi mới sáng tạo cấp tỉnh, tăng cường ứng dụng khoa học – công nghệ trong sản xuất, dịch vụ, quản lý và đời sống.
Trên cơ sở những kết quả đạt được, Sở KH&CN đặt mục tiêu hoàn thành 100% các nhiệm vụ chuyển đổi số cấp tỉnh trong năm 2025, đặc biệt tập trung vào các lĩnh vực có tác động trực tiếp đến đời sống người dân như: y tế, giáo dục, nông nghiệp và dịch vụ công. Tỉnh cũng sẽ tiếp tục nâng cấp nền tảng C-ThaiNguyen, mở rộng tính năng phản ánh hiện trường, hướng tới mô hình “chính quyền gần dân, phục vụ dân” qua môi trường số.
Một trong những nhiệm vụ trọng tâm của ngành là giảm nghèo thông tin – đưa tri thức, dữ liệu, kết nối đến với đồng bào vùng cao, vùng đặc biệt khó khăn. Thái Nguyên đang ưu tiên bố trí kinh phí lắp đặt hạ tầng mạng, camera, máy tính, thiết bị công nghệ thông tin cho các xã chưa đủ điều kiện hoạt động chuyển đổi số; phấn đấu đến hết năm 2025, 100% xã có điểm cầu trực tuyến, có internet cáp quang và điểm phục vụ bưu chính công ích.
Khoa học và công nghệ – Động lực phát triển vùng miền núi, vùng dân tộc
Tỉnh tiếp tục phối hợp với các doanh nghiệp viễn thông và Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích quốc gia để phủ sóng toàn bộ 15 thôn, bản còn lại chưa có sóng; triển khai các lớp tập huấn kỹ năng số cơ bản cho cán bộ xã, phường và người dân dân tộc thiểu số, giúp họ biết cách sử dụng điện thoại thông minh, truy cập dịch vụ công, đăng ký mã định danh điện tử, tiếp cận thông tin chính thống và dịch vụ số an toàn.

Sở KH &CN phối hợp với Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam khảo sát việc cung cấp dịch vụ viễn thông công ích tại xã Vô Tranh
Ngành KH&CN cũng sẽ tập trung đào tạo nguồn nhân lực công nghệ thông tin tại cơ sở, tăng cường phối hợp với Đại học Thái Nguyên và các doanh nghiệp công nghệ trong đào tạo, chuyển giao kỹ năng, giúp cán bộ cấp xã chủ động vận hành hệ thống quản lý, xử lý phản ánh trực tuyến và bảo đảm an toàn thông tin mạng.
Song song đó, Thái Nguyên tiếp tục hoàn thiện Trung tâm Dữ liệu hợp nhất sau sáp nhập địa giới hành chính; mở rộng hạ tầng chia sẻ dữ liệu (LGSP) phục vụ kết nối với các cơ sở dữ liệu quốc gia. Việc vận hành an toàn, hiệu quả các hệ thống này không chỉ phục vụ điều hành chính quyền số, mà còn tạo nền tảng dữ liệu để phát triển kinh tế số, xã hội số và công dân số.
Trên lĩnh vực đổi mới sáng tạo, tỉnh sẽ triển khai 19 bài toán lớn về khoa học – công nghệ – chuyển đổi số đã được công bố, khuyến khích doanh nghiệp, trường đại học, viện nghiên cứu tham gia nghiên cứu, ứng dụng thực tiễn. Cùng với đó, Thái Nguyên đặt mục tiêu xây dựng các mô hình thí điểm “nông thôn số”, “hợp tác xã số”, “làng nghề số” nhằm lan tỏa chuyển đổi số đến từng cộng đồng dân cư, góp phần giảm nghèo đa chiều bền vững.
Có thể nói, khoa học, công nghệ và chuyển đổi số không chỉ là “đòn bẩy” của công nghiệp hóa, mà còn là công cụ giảm nghèo mới, đặc biệt trong bối cảnh miền núi, vùng dân tộc thiểu số còn nhiều rào cản tiếp cận thông tin. Từ việc triển khai phủ sóng viễn thông, mở rộng internet cáp quang, đến ứng dụng nền tảng C-ThaiNguyen hay các chương trình đào tạo kỹ năng số – tất cả đang góp phần thu hẹp khoảng cách số giữa miền núi và miền xuôi, giữa nông thôn và đô thị.
Đột phá về khoa học, công nghệ và chuyển đổi số tại Thái Nguyên không chỉ thể hiện ở con số, mà còn ở cách ngành KH&CN “chạm đến” từng người dân, từng thôn bản, từng điểm lõm sóng. Đó là hành trình dài, nhưng đã và đang mang lại những chuyển biến thực chất – khi đồng bào vùng cao được tiếp cận tri thức, dịch vụ và cơ hội phát triển bình đẳng hơn trong kỷ nguyên số.
Tuấn Thành