Sau hơn 8 năm triển khai, Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ đã mang đến một bức tranh đa sắc và rực rỡ hơn cho ngành công nghiệp hỗ trợ, các doanh nghiệp đã phát triển cả về số lượng và chất lượng, đủ năng lực cung ứng trực tiếp cho các tập đoàn đa quốc gia, từng bước tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu.
Bà Bùi Thị Hồng Hạnh - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam có cuộc trao đổi với phóng viên Tạp chí Doanh nghiệp và Thương mại xung quanh nội dung này, xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
PV: Thưa bà, ở góc độ Hiệp hội Doanh nghiệp Công nghiệp hỗ trợ Việt Nam cũng như một người đã từng có nhiều năm gắn bó với ngành công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp chế biến chế tạo, bà đánh giá thế nào về sự phát triển của các doanh nghiệp và sản phẩm công nghiệp hỗ trợ của Việt Nam thời gian qua? Các doanh nghiệp đã nỗ lực triển khai những giải pháp nào để tham gia được vào chuỗi cung ứng?
Bà Bùi Thị Hồng Hạnh: Tôi tham gia ngành này từ năm 2006, khi đó doanh nghiệp rất ít, chủ yếu là doanh nghiệp nhà nước. Tìm được một nhà cung ứng nội địa cho các tập đoàn Nhật Bản vô cùng khó khăn. Khi JETRO bắt đầu lập Sách trắng doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam, khoảng năm 2011, danh sách mới chỉ hơn 100 doanh nghiệp lại phải chia thành nhóm “đạt” và “triển vọng”.

Bà Bùi Thị Hồng Hạnh - Phó Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ Việt Nam
Đến nay, con số ấy đã vượt 300 doanh nghiệp được ghi nhận, phần lớn đã có đơn hàng trực tiếp từ doanh nghiệp FDI hoặc xuất khẩu ra nước ngoài. Cùng với đó, Hiệp hội khi mới thành lập chỉ có hơn 40 hội viên, nay đã gần 400 hội viên chính thức và hơn 700 doanh nghiệp tham gia hoạt động.
Về chất lượng doanh nghiệp Việt Nam đã thay đổi căn bản. Nếu trước đây họ bị động nhận đơn hàng thì nay đã biết tự đặt mục tiêu, xác định sản phẩm chiến lược và chủ động cải tiến quy trình. Không ít doanh nghiệp đã có khả năng phản biện kỹ thuật với đối tác, đề xuất quy trình tối ưu hơn, nâng năng suất và giá trị sản phẩm.
Một số doanh nghiệp đã sản xuất được linh kiện có độ chính xác cao, giá trị gia tăng lớn, ví dụ linh kiện bán dẫn kích thước chỉ bằng đầu ngón tay, nhưng đòi hỏi quy trình khép kín và công nghệ cao. Sự thay đổi từ tư duy đến quản lý sản xuất này đang mở đường cho ngành công nghiệp hỗ trợ phát triển, nhất là khi có chính sách đồng hành từ Nhà nước.
PV: Một trong những nội dung trọng tâm của Chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ là kết nối doanh nghiệp Việt Nam với các tập đoàn đa quốc gia. Kết quả triển khai ra sao, thưa bà?
Bà Bùi Thị Hồng Hạnh: Chương trình của Bộ Công Thương và Cục Công nghiệp (Bộ Công Thương) những năm qua đã tạo điều kiện để VASI cùng doanh nghiệp tổ chức nhiều đoàn xúc tiến ra nước ngoài, cũng như các triển lãm trong nước. Gần nhất, triển lãm tháng 9/2025 tại Hà Nội quy tụ gần 400 doanh nghiệp, trong đó nhiều đơn vị quốc tế tham gia, tạo hiệu ứng lan tỏa lớn.
Không chỉ theo chiều rộng, mà theo chiều sâu: Đơn cử như chương trình hợp tác giữa Samsung Việt Nam và Bộ Công Thương hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện “nhà máy thông minh”, tư vấn cải tiến sản xuất, từ năm 2015 tới nay đã giúp tăng số nhà cung cấp cấp 1 & 2 của Samsung tại Việt Nam từ 25 lên 257 doanh nghiệp. Các tập đoàn đa quốc gia được khuyến khích coi Việt Nam là mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng, đặc biệt đối với FDI Hàn Quốc. Đặc biệt, các hoạt động của Chương trình được đánh giá ngày càng phong phú, đa dạng, đi vào chiều sâu, có tính ứng dụng cao và phù hợp với nhu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. Số lượng doanh nghiệp tham gia các hoạt động thuộc Chương trình ngày càng gia tăng, đặc biệt là trong các hoạt động hỗ trợ kỹ thuật chuyên sâu như quản trị sản xuất, quản lý chất lượng, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đổi mới, ứng dụng công nghệ vào sản xuất.
Ở cấp độ doanh nghiệp, nhiều đơn vị đã chủ động đi tìm đối tác, hình thành cụm liên kết cung ứng. Liên kết trong nước cũng được Hiệp hội thúc đẩy mạnh mẽ. Hàng tháng, các nhóm kỹ thuật, khuôn mẫu, xử lý bề mặt… đều có buổi sinh hoạt chuyên đề, vừa chia sẻ kỹ thuật, vừa kết nối cung -cầu. Đến nay đã có hơn 30 buổi sinh hoạt chuyên ngành được duy trì.
PV: Trước bối cảnh cạnh tranh toàn cầu và chuyển đổi công nghệ, bà cho rằng ngành công nghiệp hỗ trợ cần thay đổi thế nào?
Bà Bùi Thị Hồng Hạnh: Doanh nghiệp phải linh hoạt và chủ động học hỏi. Không thể chỉ chờ đặt hàng mà cần chủ động cập nhật công nghệ, mở rộng sản xuất từ linh kiện đơn lẻ sang cụm chi tiết. Song song, cần chú trọng đào tạo từ lãnh đạo đến công nhân để thích ứng nhanh với thay đổi công nghệ.

Phía cơ quan quản lý Nhà nước cũng cần chuyển từ “hỗ trợ chính sách” sang “hỗ trợ hành động”, tức là thực thi chính sách sát thực tế hơn. Doanh nghiệp cần sự đồng hành thực chất chứ không chỉ ở cấp văn bản.
VASI hiện duy trì các khóa đào tạo định kỳ hàng tháng, cả trực tiếp lẫn trực tuyến, chia theo chuyên ngành và khu vực. Hiệp hội cũng đang mở rộng kết nối quốc tế. Trong năm 2025 dự kiến sẽ thành lập chi nhánh tại Nhật Bản (Osaka và Tokyo) – nơi nhiều doanh nghiệp Việt đã có văn phòng đại diện.
Ngoài kết nối cung cầu, Hiệp hội còn phát động cuộc thi tay nghề thường niên cho sinh viên ngành khuôn mẫu, liên kết với Câu lạc bộ Khuôn mẫu Nhật – Việt. Những sinh viên xuất sắc sẽ được sang Nhật thi quốc tế, một cách gieo mầm cho thế hệ kỹ sư trẻ ngành côgn nghiệp hỗ trợ.
Một tín hiệu tích cực là đã có doanh nghiệp Việt chế tạo thành công máy cắt laser nội địa hóa 60-70%, xuất khẩu sang Nhật Bản và Ấn Độ. Đó là minh chứng rõ ràng cho năng lực đổi mới sáng tạo khi có nền công nghiệp hỗ trợ bền vững.
Chúng tôi có đề xuất, về đất đai có cơ chế cho thuê linh hoạt, quy mô nhỏ, hoặc hình thức trả dần để doanh nghiệp nhỏ có thể tiếp cận.
Về vốn và thuế cần xem xét ưu đãi vay vốn đầu tư máy móc; đánh giá lại mức thuế VAT đối với thiết bị nhập về phục vụ sản xuất, không mang tính thương mại.
Về phối hợp chính sách, nên có cuộc họp định kỳ hàng tháng giữa Cục Công nghiệp, Sở Công Thương và Hiệp hội để phản ánh trực tiếp tiếng nói doanh nghiệp.
Về xúc tiến thị trường, tập trung tổ chức triển lãm kết nối cung cầu tại cả hai miền Nam, Bắc; mở rộng quy mô để thu hút nhà mua quốc tế thực sự.
Để ngành CNHT bứt phá cần hành động thực chất, từ chính sách đất đai, vốn, nhân lực và kết nối thị trường. Khi cả ba yếu tố Nhà nước - Hiệp hội – DN cùng chuyển động, CNHT Việt Nam hoàn toàn có thể vươn lên, trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
PV: Xin cảm ơn bà!
Thu Trang
