Ngành công nghiệp hỗ trợ bứt phá cần đầu tư phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao

Ngày đăng: 18/11/2025 15:11 | Lượt xem: 2018

Trong bức tranh phát triển công nghiệp Việt Nam hiện nay, ngành công nghiệp hỗ trợ được xem là “xương sống” của nền sản xuất, là yếu tố then chốt giúp nâng cao giá trị gia tăng và giảm phụ thuộc vào nhập khẩu linh kiện, nguyên vật liệu. Tuy nhiên, dù đã có nhiều chính sách khuyến khích, hỗ trợ và ưu tiên phát triển, rào cản lớn nhất khiến ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn chưa thể bứt phá chính là vấn đề nhân lực, đặc biệt là nhân lực kỹ thuật cao.

Theo Bộ Công Thương, cả nước hiện có khoảng 2.000 doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, nhưng chỉ chưa đến 300 doanh nghiệp đủ năng lực tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia như Samsung, Toyota, Canon, LG. Một trong những nguyên nhân cốt lõi là sự thiếu hụt lao động kỹ thuật cao, am hiểu công nghệ và có khả năng sáng tạo. Trong các lĩnh vực cơ khí chính xác, linh kiện ô tô, điện tử, nhu cầu kỹ sư, kỹ thuật viên có tay nghề tăng đều hằng năm từ 8-10%, song chỉ khoảng 40-50% lao động hiện có đáp ứng được yêu cầu thực tế của doanh nghiệp. Điều này khiến nhiều doanh nghiệp buộc phải tự đào tạo lại hoặc thuê chuyên gia nước ngoài, dẫn đến chi phí cao và làm chậm tiến độ sản xuất.

Ông Chu Việt Cường – quyền giám đốc Trung tâm Hỗ trợ phát triển Công nghiệp (Cục Công nghiệp, Bộ Công Thương) chia sẻ: “Việt Nam đang trong thời kỳ dân số vàng với hơn 54% dân số trong độ tuổi lao động. Thế nhưng số lao động có tay nghề cao, có trình độ kỹ thuật đạt chuẩn quốc tế lại rất ít. Đây chính là điểm nghẽn lớn nhất khiến công nghiệp hỗ trợ chưa thể bứt phá mạnh mẽ.” Cũng theo ông Cường, đầu tư cho nguồn nhân lực là yếu tố quyết định tính bền vững của ngành, đặc biệt trong bối cảnh các doanh nghiệp đang dần chuyển từ thâm dụng lao động sang thâm dụng công nghệ, hướng đến tự động hóa và sản xuất thông minh.

Thực tế hiện nay, khoảng cách giữa nhà trường và doanh nghiệp trong đào tạo nhân lực kỹ thuật vẫn còn khá xa. Ông Lê Phúc Khang – Tổng giám đốc Công ty Phát triển công nghệ TPT Việt Nam cho biết: “Giữa thực tế sản xuất tại các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ và nội dung giảng dạy trong nhà trường vẫn tồn tại một khoảng cách đáng kể. Sinh viên ra trường nắm lý thuyết khá tốt, nhưng khi tiếp xúc với dây chuyền sản xuất, máy móc hiện đại lại lúng túng.

Doanh nghiệp phải mất thêm ít nhất 6 tháng để đào tạo lại, điều này gây lãng phí rất lớn về thời gian và chi phí.” Ông Khang cũng cho rằng, để đáp ứng được yêu cầu hội nhập, nhân sự ngành công nghiệp hỗ trợ không chỉ cần kiến thức chuyên môn, mà còn phải am hiểu các tiêu chuẩn và quy trình sản xuất quốc tế như ISO 9001, ISO 14001, ISO 45001… cũng như cách thức vận hành hệ thống thiết bị tự động hóa.

Từ góc nhìn đào tạo, NGƯT.TS Phạm Xuân Khánh – Hiệu trưởng Trường Cao đẳng Công nghệ cao Hà Nội nhấn mạnh rằng việc “chênh nhịp” giữa nhà trường và doanh nghiệp là nguyên nhân sâu xa của tình trạng thiếu hụt nhân lực chất lượng cao hiện nay. Ông nói: “Đào tạo phải hướng đến chuẩn năng lực thực hành, tức là sinh viên ra trường phải làm được việc ngay. Chúng tôi đang tăng cường mô hình đào tạo song hành học tại trường kết hợp thực hành tại doanh nghiệp. Chỉ khi có sự liên kết chặt chẽ giữa nhà trường, doanh nghiệp và cơ quan quản lý, nguồn nhân lực công nghiệp hỗ trợ mới thực sự phát triển bền vững.”

Thực tiễn từ các doanh nghiệp cũng cho thấy, đầu tư cho con người chính là chìa khóa mở ra năng lực cạnh tranh. Ông Phạm Hải Phong – Chánh Văn phòng Hiệp hội Công nghiệp Hỗ trợ Việt Nam (VASI) dẫn chứng một doanh nghiệp thành viên của VASI từng chỉ tham dự triển lãm công nghiệp ở Đức với tư cách quan sát viên. Sau khi nhận thấy tiềm năng lớn, họ mạnh dạn đầu tư đổi mới công nghệ, gửi kỹ sư sang Nhật Bản và Hàn Quốc đào tạo, đồng thời tham gia các chương trình tư vấn – huấn luyện do VASI và JICA hỗ trợ.

Gần 10 năm kiên trì, doanh nghiệp này đã đạt chuẩn để cung ứng linh kiện cho các tập đoàn lớn châu Âu và mở rộng thêm hai nhà máy, tăng gấp ba lần sản lượng. “Câu chuyện này cho thấy, để chen chân vào chuỗi cung ứng toàn cầu, doanh nghiệp phải đầu tư lâu dài, bền bỉ cho công nghệ và đặc biệt là con người đội ngũ có tay nghề cao, chuyên nghiệp, sáng tạo,” ông Phong nhấn mạnh.

Dù đã đạt được nhiều bước tiến, nhưng cơ cấu nhân lực của ngành công nghiệp hỗ trợ vẫn mất cân đối. Trong khoảng 6.000 doanh nghiệp đang hoạt động, nhóm doanh nghiệp nội địa mới chỉ đáp ứng được 10-15% nhu cầu linh kiện, phụ tùng cho sản xuất. Trong khi đó, gần 40% doanh nghiệp trong ngành là doanh nghiệp FDI, chủ yếu đến từ các quốc gia có nền công nghiệp phát triển mạnh như Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan – nơi nguồn nhân lực kỹ thuật được đào tạo bài bản. Theo ông Vũ Bá Phú – Cục trưởng Cục Xúc tiến Thương mại (Bộ Công Thương),tỷ lệ nội địa hóa trong các ngành công nghiệp vẫn còn khá thấp: dệt may – da giày đạt 45-50%, cơ khí chế tạo 15-20%, lắp ráp ô tô chỉ 5-20%. Nguyên nhân sâu xa chính là năng lực của nhân lực trong nước chưa đủ mạnh để làm chủ các công đoạn công nghệ cao.

Trong bối cảnh chuyển đổi số và chuyển đổi xanh đang diễn ra mạnh mẽ trên toàn cầu, yêu cầu về chất lượng nhân lực trong công nghiệp hỗ trợ cũng đang thay đổi nhanh chóng. Lao động không chỉ cần thành thạo kỹ thuật mà còn phải có khả năng vận hành robot, sử dụng công nghệ số, phân tích dữ liệu và làm chủ các công nghệ trí tuệ nhân tạo (AI) trong sản xuất.

Trước thực tế đó, các chuyên gia cho rằng Việt Nam cần nhanh chóng xây dựng một hệ sinh thái đào tạo nhân lực công nghiệp hỗ trợ theo hướng mở và linh hoạt hơn, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo chính sách, doanh nghiệp là trung tâm sử dụng lao động, còn nhà trường là nơi cung cấp và đào tạo.

PGS.TS Nguyễn Minh Đức chuyên gia về đào tạo nhân lực công nghiệp cho biết: “Hiện nay, chương trình đào tạo ở nhiều trường đại học kỹ thuật vẫn đi chậm hơn doanh nghiệp ít nhất một nhịp. Cần khuyến khích doanh nghiệp tham gia sâu vào quá trình xây dựng chương trình, giảng dạy và hướng dẫn thực hành. Mô hình ‘đào tạo kép’ cần được nhân rộng, giúp sinh viên vừa học lý thuyết, vừa thực tập thực tế tại doanh nghiệp.”

Bên cạnh đó, cần tập trung nguồn lực quốc gia vào việc hình thành các trung tâm đào tạo kỹ thuật cao, chuyên sâu trong các lĩnh vực then chốt như cơ khí chính xác, vật liệu mới, tự động hóa, robot công nghiệp, công nghệ số và sản xuất xanh. Đồng thời, có cơ chế liên kết vùng, tránh tình trạng đào tạo dàn trải. Ví dụ, vùng Đồng bằng sông Hồng có thể trở thành trung tâm đào tạo nhân lực cơ khí – điện tử, còn khu vực miền Trung và Tây Nguyên có thể phát triển các ngành vật liệu và năng lượng xanh, phù hợp với lợi thế sẵn có của từng địa phương.

Ngoài đào tạo trong nước, hợp tác quốc tế cũng là hướng đi quan trọng để nâng cao chất lượng nhân lực. Việt Nam hiện có nhiều chương trình hợp tác đào tạo nhân lực kỹ thuật với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đức… Theo các chuyên gia JICA, lao động Việt Nam có khả năng học hỏi nhanh và hoàn toàn có thể đạt năng suất tương đương kỹ sư Nhật Bản sau 3–5 năm làm việc trong môi trường hiện đại. Hiệp hội Doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam (JCCI) cho biết, có đến 60% doanh nghiệp Nhật sẵn sàng mở rộng chuỗi cung ứng nếu Việt Nam có đủ nhân lực kỹ thuật đạt yêu cầu. Đây là cơ hội lớn để Việt Nam tận dụng lợi thế dân số trẻ, năng động, sáng tạo và có tinh thần cầu tiến.

Từ thực tiễn và phân tích của các chuyên gia có thể thấy, phát triển nhân lực chất lượng cao phải được coi là trọng tâm trong chiến lược phát triển công nghiệp hỗ trợ. Đây không chỉ là yêu cầu của doanh nghiệp mà còn là vấn đề của quốc gia, bởi chỉ khi có nguồn nhân lực mạnh, Việt Nam mới đủ khả năng làm chủ công nghệ và tham gia sâu vào chuỗi giá trị toàn cầu. TS Phạm Xuân Khánh cho rằng Việt Nam hoàn toàn có thể học hỏi mô hình đào tạo kép của Đức hoặc Hàn Quốc – nơi sinh viên được học song hành giữa trường lớp và doanh nghiệp. “Mô hình này giúp người học không chỉ có kiến thức mà còn được rèn kỹ năng, tác phong công nghiệp và tư duy sáng tạo – những yếu tố mà Việt Nam còn thiếu hiện nay,” ông Khánh chia sẻ.

Ông Phạm Hải Phong (VASI) cũng nhấn mạnh: “Nguồn nhân lực chính là chìa khóa vàng. Nếu doanh nghiệp biết đầu tư đúng và đủ cho con người, không chỉ sản phẩm mà thương hiệu Việt Nam cũng sẽ được nâng tầm trên bản đồ công nghiệp thế giới.” Theo ông, chiến lược phát triển nhân lực phải được nhìn nhận như đầu tư dài hạn, không thể theo tư duy ngắn hạn. Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp tham gia đào tạo, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển nhân lực công nghiệp và khuyến khích hợp tác quốc tế trong lĩnh vực này.

Rõ ràng, dù hệ thống chính sách hỗ trợ ngành công nghiệp hỗ trợ đã tương đối toàn diện từ ưu đãi thuế, tín dụng, đất đai đến xúc tiến thương mại nhưng nếu thiếu con người chất lượng cao, mọi ưu đãi sẽ khó phát huy hiệu quả. Việt Nam cần chuyển từ tư duy “khát nhân lực” sang “chủ động đào tạo nhân lực”, hướng đến xây dựng lực lượng lao động có kỹ năng số, năng lực sáng tạo và khả năng làm chủ công nghệ mới. Trong kỷ nguyên cách mạng công nghiệp 4.0 và xu hướng sản xuất xanh, đầu tư cho con người chính là đầu tư cho tương lai, là nền tảng để công nghiệp hỗ trợ Việt Nam bứt phá và vươn tầm.

Ngành công nghiệp hỗ trợ Việt Nam chỉ có thể vươn mình mạnh mẽ khi yếu tố con người trung tâm của mọi tiến bộ được đầu tư đúng hướng và xứng đáng. Đó không chỉ là yêu cầu của thời đại, mà còn là chiến lược của một Việt Nam công nghiệp hiện đại, tự chủ và bền vững./.

Thu Trang

Link nội dung: https://doanhnghiepvathuongmai.vn/bai-viet/nganh-cong-nghiep-ho-tro-but-pha-can-dau-tu-phat-trien-nguon-nhan-luc-chat-luong-cao.phtml