Phát triển Công nghiệp hỗ trợ theo chiều sâu là chìa khóa để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư

Ngày đăng: 17/10/2025 14:19 | Lượt xem: 2048

Công nghiệp hỗ trợ (CNHT) là giải pháp then chốt để Việt Nam gia tăng giá trị trong chuỗi sản xuất và giảm phụ thuộc vào biến động kinh tế toàn cầu, từ đó nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm trong nước.

Việt Nam xác định tầm quan trọng của công nghiệp hỗ trợ trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.

Trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế Việt Nam, phát triển CNHT có ý nghĩa quan trọng, bởi đó là con đường nhanh nhất giúp nâng cao năng suất lao động, giá trị gia tăng và năng lực cạnh tranh, góp phần tăng tỷ trọng đóng góp của ngành công nghiệp chế biến, chế tạo trong cơ cấu nền kinh tế.

Trong những năm qua, Đảng và Nhà nước đã quan tâm chỉ đạo phát triển CNHT.

Nghị quyết số 23-NQ/TW, ngày 22-3-2018, của Bộ Chính trị đưa ra định hướng: Xây dựng tiêu chí ưu tiên trong lựa chọn phát triển CNHT, tập trung vào các khâu còn yếu của chuỗi giá trị sản phẩm hoặc công đoạn quyết định đến chất lượng, giá trị sản phẩm của ngành. Hỗ trợ phát triển các nhà cung ứng trong các ngành công nghiệp ưu tiên, coi đây là cốt lõi của chính sách phát triển CNHT.

Nghị quyết số 115/NQ-CP, ngày 6-8-2020, của Chính phủ Về các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT”. Theo đó, mục tiêu đến năm 2025, doanh nghiệp Việt Nam có khả năng sản xuất các sản phẩm CNHT có tính cạnh tranh cao. Theo nghị quyết này, Việt Nam sẽ hình thành 5 trung tâm hỗ trợ kỹ thuật trên toàn quốc để cung cấp các giải pháp thúc đẩy phát triển CNHT. Trong đó, 3 trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp trong lĩnh vực cơ khí, điện tử và 2 trung tâm nghiên cứu, phát triển công nghiệp lĩnh vực dệt may, da giày nhằm hỗ trợ đổi mới sáng tạo, sản xuất thử nghiệm, kiểm định chất lượng sản phẩm cho các doanh nghiệp CNHT.

Để khuyến khích, ưu đãi ngành CNHT, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như: ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp với mức 10% trong thời gian 15 năm, miễn thuế 4 năm, giảm 50% số thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp trong 9 năm tiếp theo. Về thuế nhập khẩu, trong đó có chính sách miễn thuế cho máy móc, thiết bị, vật tư chưa sản xuất được trong nước.

Trong đó, Nghị định số 57/2021/NĐ-CP, ngày 4-6-2021, của Chính phủ “Bổ sung điểm g, khoản 2, Điều 20, Nghị định số 218/2013/NĐ-CP (đã được sửa đổi, bổ sung tại Nghị định số 12/2015/NĐ-CP) về ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp đối với dự án sản xuất sản phẩm CNHT” quy định các doanh nghiệp có dự án đầu tư (đầu tư mới và đầu tư mở rộng) sản xuất sản phẩm CNHT trước năm 2015 và đã được cấp giấy xác nhận ưu đãi sản xuất sản phẩm CNHT sẽ được áp dụng mức ưu đãi thuế cao nhất, đối với thu nhập phát sinh từ dự án sản xuất sản phẩm CNHT cho thời gian còn lại, kể từ kỳ tính thuế được cấp giấy xác nhận ưu đãi CNHT.

Ngoài ra, còn có các chính sách ưu đãi đất đai như giảm hoặc miễn tiền thuê đất trong giai đoạn xây dựng và những năm đầu hoạt động; hỗ trợ tiếp cận vốn ưu đãi từ Quỹ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, Quỹ đổi mới công nghệ quốc gia và ngân sách nhà nước; hỗ trợ chi phí tư vấn, đào tạo quản trị và sản xuất theo tiêu chuẩn quốc tế. Hỗ trợ đổi mới công nghệ và tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu; hỗ trợ tham gia hội chợ, triển lãm để tìm kiếm đối tác và mở rộng thị trường.

Bên cạnh đó, các chính sách về cải cách thủ tục hành chính và hạ tầng như triển khai hệ thống một cửa quốc gia và ASEAN, giảm thời gian cấp phép và thông quan; đầu tư hạ tầng khu công nghiệp, phát triển nhân lực chất lượng cao thông qua liên kết giữa cơ sở đào tạo và doanh nghiệp trong các ngành kỹ thuật, chế tạo, cơ khí chính xác và điện tử cũng đã được chú trọng.

Việc Chính phủ triển khai đồng bộ các giải pháp hỗ trợ đã thúc đẩy doanh nghiệp CNHT Việt Nam từng bước phát triển, với số lượng không ngừng tăng lên, năng lực cũng từng bước được cải thiện. Tỷ lệ nội địa hóa của một số ngành công nghiệp Việt Nam đã được cải thiện. Ví dụ như tỷ lệ nội địa hóa các ngành điện tử gia dụng là 30% - 35%; điện tử phục vụ các ngành ô-tô - xe máy khoảng 40% (chủ yếu cho sản xuất xe máy). Đối với ngành sản xuất, lắp ráp ô-tô, một số dòng xe đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, đáp ứng thị trường nội địa (xe tải đến 7 tấn đáp ứng khoảng 70% nhu cầu, tỷ lệ nội địa hóa trung bình 55%; xe khách từ 10 chỗ ngồi trở lên, xe chuyên dụng đáp ứng khoảng 90% nhu cầu, tỷ lệ nội địa hóa đạt tối đa đến 40%). Đã hình thành được một số doanh nghiệp có khả năng cung ứng sản phẩm, linh kiện cho các tập đoàn đa quốc gia trong lĩnh vực điện tử, dệt may, da giày, ô tô.

Loạt chính sách đồng bộ trợ lực cho CNHT đã tạo môi trường thuận lợi để Việt Nam thu hút các doanh nghiệp FDI. Minh chứng cho thấy, đến nay Việt Nam đã thu hút đầu tư từ 151 quốc gia và vùng lãnh thổ. Riêng 9 tháng đầu năm 2025, tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đăng ký vào Việt Nam đạt 28,54 tỷ USD, tăng 15,2% so với cùng kỳ năm 2024, trong đó vốn thực hiện ước đạt 11,72 tỷ USD, tăng 8,1%. Trong số các dự án mới, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo tiếp tục là “xương sống” khi thu hút tới 7,27 tỷ USD, chiếm 58,7% tổng vốn đăng ký.

Năm 2025 là thời điểm quan trọng cho tiến trình hội nhập và chuyển đổi của ngành sản xuất Việt Nam, chịu tác động đồng thời của tái cấu trúc chuỗi cung ứng toàn cầu, chuyển đổi xanh, số hóa sản xuất và các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới.

Để bắt kịp xu hướng đồng thời tiếp tục nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp Việt Nam, ngày 17-7-2025 Chính phủ ban hành Nghị định 205/2025/NĐ-CP, có hiệu lực từ 1/9, nhằm mở rộng chính sách ưu đãi dành cho CNHT, được đánh giá là bước điều chỉnh quan trọng sau gần một thập kỷ, mở rộng chính sách ưu đãi cho CNHT, khơi thông nguồn lực để doanh nghiệp trong nước tham gia sâu hơn vào chuỗi cung ứng toàn cầu.

Nghị định mới bổ sung các chính sách nhằm thúc đẩy ứng dụng, chuyển giao công nghệ và đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực này. Nghị định cũng bổ sung ba điều khoản mở rộng hỗ trợ cho doanh nghiệp CNHT trong các lĩnh vực môi trường, pháp lý và kiểm định chất lượng.

Về hỗ trợ pháp lý, doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất sản phẩm CNHT thuộc danh mục ưu tiên được tiếp cận các chính sách hỗ trợ theo Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa.

Nghị định cũng quy định hỗ trợ tối đa 50% chi phí cho nhiều hoạt động thử nghiệm, kiểm định, giám định và chứng nhận chất lượng sản phẩm, bao gồm: thuê phòng thử nghiệm, thử nghiệm mẫu, kiểm nghiệm hàng hóa mới, đăng ký bản quyền, sở hữu trí tuệ, mã số mã vạch, cũng như các chi phí liên quan đến đo lường, hiệu chuẩn phương tiện đo.

Về chính sách ưu đãi đầu tư, dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc danh mục ưu tiên được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước và được hưởng ưu đãi thuế cùng các chính sách đầu tư theo quy định pháp luật hiện hành.

Bộ Công Thương giữ vai trò đầu mối quản lý quốc gia về CNHT; chủ trì xây dựng hệ sinh thái chính sách, tiêu chuẩn, đầu tư phát triển các Trung tâm kỹ thuật hỗ trợ phát triển công nghiệp vùng bằng nguồn ngân sách nhà nước và phối hợp cùng các bộ khác.

Việt Nam đang ở thời điểm chiến lược để đón đầu làn sóng dịch chuyển chuỗi cung ứng toàn cầu. Việc tập trung phát triển CNHT theo chiều sâu, kết hợp với các chính sách đồng bộ và sự phối hợp chặt chẽ giữa các bên sẽ là chìa khóa để Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh và thu hút đầu tư chất lượng cao.

Đào Hoàn

Link nội dung: https://doanhnghiepvathuongmai.vn/bai-viet/phat-trien-cong-nghiep-ho-tro-theo-chieu-sau-la-chia-khoa-de-viet-nam-nang-cao-nang-luc-canh-tranh-va-thu-hut-dau-tu.phtml