Trong quá trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, cùng với sự định hướng, đồng hành từ Trung ương, vai trò của các địa phương là vô cùng quan trọng.

Hà Nội đã hình thành một số khu công nghiệp chuyên sâu về công nghiệp hỗ trợ. Ảnh minh họa: TTXVN
Với nhiều nỗ lực từ Chính phủ, Bộ Công Thương và các Bộ, ngành cùng sự chủ động từ phía DN, thời gian qua, năng lực của các doanh nghiệp (DN) công nghiệp hỗ trợ (CNHT) Việt Nam đã không ngừng nâng lên, tăng cường tham gia vào chuỗi cung ứng của các tập đoàn đa quốc gia.
Trong đó, mô hình hợp tác phát triển CNHT giữa Trung ương, chính quyền địa phương và các DN đầu tàu là một trong những chương trình hợp tác điển hình mà Bộ Công Thương đã triển khai, ghi nhận nhiều kết quả tích cực.
Từ năm 2022, Bộ Công Thương đã thành lập một tổ công tác gồm các đơn vị chuyên môn thuộc Bộ, trong đó Cục Công nghiệp là đơn vị thường trực, để làm việc với các địa phương về việc trao đổi những nội dung về các chính sách của Trung ương đã ban hành và trên cơ sở đặc thù của từng địa phương để tiếp tục xây dựng những chính sách cho phù hợp với các địa phương. Bộ Công Thương cũng thường xuyên phối hợp với các địa phương và các DN vốn đầu tư nước ngoài (FDI) lớn trong việc phát triển các nhà cung cấp nội địa; đồng thời, phối hợp với các bộ, ngành cùng với các địa phương để xây dựng những chính sách thu hút đầu tư vào các địa phương, đặc biệt đã xây dựng hai trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp tại phía Bắc và phía Nam để chung tay cùng với các địa phương hỗ trợ nâng cao năng lực cho các DN.
Về phía các địa phương, trên cơ sở những chính sách chung của Trung ương, một số địa phương có nhiều tiềm năng phát triển CNHT như Thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Thái Nguyên, Bắc Ninh, Hải Phòng,… trong thời gian vừa qua đã chủ động ban hành những chính sách cho riêng địa phương mình, tập trung chủ yếu vào một số nội dung như hỗ trợ các DN đào tạo nguồn nhân lực, giúp các DN tiếp cận được vào chuỗi sản xuất toàn cầu…
Một số địa phương nổi bật trong phát triển CNHT
Hà Nội
Hà Nội đặt mục tiêu đến năm 2030 trở thành thành phố công nghiệp hiện đại, công nghệ cao và xanh, gắn với phát triển bền vững. Trong bối cảnh kinh tế toàn cầu biến động, việc phát triển CNHT không chỉ giúp Hà Nội nâng cao năng lực cạnh tranh mà còn góp phần ổn định tăng trưởng kinh tế và đạt mục tiêu trên. Thành phố đã ban hành Kế hoạch số 301/KH-UBND về phát triển CNHT năm 2025, tập trung thu hút đầu tư đa thành phần kinh tế, khuyến khích DN tham gia vào các khu CNHT, đặc biệt là Khu CNHT Nam Hà Nội – mô hình đầu tiên tại Việt Nam chuyên cho công nghiệp công nghệ cao, hiện đã lấp đầy giai đoạn 1.
Với sự đồng hành của Nhà nước, sự chủ động đổi mới sáng tạo từ DN cùng xu thế hội nhập quốc tế, CNHT đang ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế của Thủ đô, vừa là “bệ đỡ” cho công nghiệp chế tạo, vừa là động lực giúp Hà Nội hội nhập sâu rộng vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Thành phố đang tập trung lựa chọn các ngành ưu tiên có lợi thế cạnh tranh và giá trị gia tăng cao, từng bước hình thành cụm liên kết ngành, gắn kết chặt chẽ với các chuỗi sản xuất toàn cầu. Bên cạnh đó, triển khai nhiều chương trình hỗ trợ như áp dụng hệ thống quản lý đạt chuẩn quốc tế, hỗ trợ R&D, chuyển giao công nghệ, nâng cao chất lượng nhân lực, xúc tiến đầu tư – thương mại.
Đến nay, trên địa bàn có hơn 900 DN CNHT, trong đó hơn 320 DN (35%) đã xây dựng được hệ thống sản xuất và sản phẩm đạt chuẩn quốc tế, đủ khả năng cung ứng cho các tập đoàn lớn trong nước và quốc tế, trở thành cầu nối quan trọng giữa DN trong nước và các tập đoàn đa quốc gia.
Một số lĩnh vực đã đạt tỷ lệ nội địa hóa cao, giúp DN Việt Nam giảm phụ thuộc nhập khẩu, nâng cao năng lực cạnh tranh và từng bước khẳng định vị thế trong khu vực, thế giới. Trong đó, các nhóm sản xuất linh kiện, phụ tùng là mũi nhọn, cung cấp cho những ngành công nghiệp chế tạo chủ lực như ô tô, xe máy, cơ khí, điện - điện tử.
Thành phố Hồ Chí Minh
CNHT trên địa bàn phát triển mạnh từ năm 2009, đến nay trên địa bàn có trên 3.000 DN sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực CNHT. Khu vực kinh tế tư nhân trong nước đóng vai trò ngày càng rõ nét trong lĩnh vực này. Các ngành CNHT có mức độ thu hút đầu tư cao gồm: Cơ khí, điện tử, nhựa - cao su, phần mềm, dệt may phụ trợ, dịch vụ công nghiệp với tổng vốn đầu tư cao và tiềm năng tham gia sâu vào chuỗi cung ứng.
Thành phố có nhiều chính sách hỗ trợ DN CNHT đầu tư, mở rộng sản xuất và kết nối các kênh phân phối; xây dựng các chương trình kết nối cung cầu sản phẩm CNHT, hỗ trợ DN tham gia sâu vào các chuỗi cung ứng toàn cầu; xây dựng các KCN chuyên ngành như điện tử, cơ khí, công nghệ cao, gắn với chuyển đổi số và phát triển xanh. Thành phố cũng hỗ trợ DN tham gia hội chợ trong nước và quốc tế, đặc biệt tại các thị trường khó tính. Các dự án sản xuất sản phẩm CNHT thuộc danh mục ưu tiên được miễn, giảm tiền thuê đất, thuê mặt nước và hưởng ưu đãi thuế theo quy định. Ngoài ra, DN nhỏ và vừa sản xuất sản phẩm CNHT ưu tiên được tiếp cận chính sách hỗ trợ pháp lý; Hỗ trợ đến 50% chi phí các hoạt động thử nghiệm, kiểm định, giám định chất lượng.
Bắc Ninh
Nắm bắt cơ hội từ làn sóng đầu tư nước ngoài, nhiều DN tại tỉnh Bắc Ninh đã chủ động xây dựng chiến lược sản xuất, kinh doanh bài bản, từng bước trở thành mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng toàn cầu.
Toàn tỉnh Bắc Ninh có khoảng 3 nghìn DN CNHT tham gia vào chuỗi cung ứng. Trong đó DN Việt Nam chiếm hơn 50%. Các DN CNHT chủ yếu tập trung phục vụ các lĩnh vực chính gồm: Lắp ráp sản phẩm điện tử, cơ khí, thực phẩm, đồ uống áp dụng công nghệ cao…
Bắc Ninh đã triển khai nhiều chính sách thiết thực để phát triển CNHT. Nổi bật là việc ban hành Quy chế quản lý kinh phí phát triển CNHT, quy định cụ thể mức chi cho các hoạt động hỗ trợ; ký kết Biên bản ghi nhớ ba bên giữa Bộ Công Thương, UBND tỉnh và Công ty trách nhiệm hữu hạn Samsung Electronics Việt Nam về chương trình tư vấn nâng cao năng lực cho DN Việt Nam; đồng thời phê duyệt Chương trình phát triển CNHT giai đoạn 2021-2025 với tổng kinh phí gần 154 tỷ đồng. Nhiều đề án nâng cao năng lực DN đã được triển khai, nhờ đó nhiều DN trong nước đã tiếp cận công nghệ cũng như đối tác mới, mở rộng thị trường, thắt chặt mối liên kết với DN FDI.
Hiện nay, Sở Công Thương đang tích cực tham mưu xây dựng chương trình phát triển CNHT giai đoạn 2025-2030. Trong đó năm 2025 tập trung triển khai các hoạt động cải tiến kỹ thuật, nâng cao năng suất, chất lượng và tối ưu hóa hiệu quả vận hành cho DN. Đồng thời, tỉnh sẽ phối hợp với các tập đoàn lớn để xây dựng chương trình cử chuyên gia hỗ trợ về công nghệ, quản trị và nâng cao năng lực cạnh tranh.
Ninh Bình
Tốc độ tăng trưởng GRDP 9 tháng đầu năm 2025 của Ninh Bình đạt 10,45%. Trong đó, công nghiệp tiếp tục là đầu tàu kinh tế của Ninh Bình. Chỉ số sản xuất công nghiệp (IIP) tăng 22,03% so với cùng kỳ, cho thấy chính sách phát triển công nghiệp ưu tiên – đặc biệt là CNHT – đang phát huy hiệu quả.
Thành công của Ninh Bình trong phát triển CNHT là kết quả của những chính sách mang tính chiến lược: ưu đãi thuế, hỗ trợ mặt bằng sản xuất, cải cách thủ tục hành chính, xúc tiến thương mại và kết nối thị trường. Những hỗ trợ này giúp DN nhanh chóng ổn định sản xuất, tiếp cận thị trường quốc tế và mở rộng quy mô đầu tư. Đặc biệt, tỉnh còn chú trọng đến yếu tố công nghệ, thúc đẩy DN ứng dụng kỹ thuật số, tự động hóa vào sản xuất để gia tăng năng suất và giảm phụ thuộc vào nhân công phổ thông. Song song, công tác đào tạo nhân lực chất lượng cao, phù hợp với yêu cầu của các ngành công nghiệp mới cũng được quan tâm đúng mức.
Khác với tư duy công nghiệp hóa truyền thống, Ninh Bình hướng đến một nền công nghiệp xanh, ứng dụng công nghệ sạch, tiết kiệm năng lượng và giảm phát thải. Mục tiêu không chỉ là tăng trưởng về lượng, mà còn nâng tầm chất lượng và bền vững về lâu dài. Điều này thể hiện rõ trong các dự án đầu tư mới, khi nhiều nhà đầu tư trong lĩnh vực điện tử, cơ khí chính xác, sản phẩm công nghệ cao… lựa chọn Ninh Bình nhờ cam kết mạnh mẽ về phát triển bền vững và thân thiện môi trường.
Hải Phòng
Việc triển khai chương trình phát triển CNHT cùng các chương trình khác của Thành phố, cũng như các giải pháp hỗ trợ về hạ tầng; về cải cách, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh; về nhân lực; về công nghệ, đổi mới sáng tạo… đã thúc đẩy các DN hình thành và triển khai một số ý tưởng để đẩy mạnh cải tiến quản trị DN, cải tiến công nghệ sản xuất.
Để triển khai hiệu quả chương trình phát triển CNHT, Hải Phòng tiếp tục đầu tư phát triển các khu, khu công nghiệp trên địa bàn thành phố; tiếp tục cải cách hành chính, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, giải quyết các công việc hành chính nâng lên cấp độ ba, cấp độ bốn; hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực lực cao, quản trị DN…
Cần tăng cường hơn nữa vai trò của địa phương trong phát triển CNHT
Có thể thấy, nhiều địa phương đã rất nỗ lực trong việc thúc đẩy sự phát triển của CNHT. Tuy nhiên, một số địa phương vẫn còn khá thụ động trong triển khai thực hiện chính sách phát triển công nghiệp nói chung và CNHT nói riêng.
Theo đó, chưa nhiều địa phương chủ động xây dựng, ban hành thực thi các chính sách riêng để thúc đẩy sự phát triển của ngành CNHT. Tiềm năng lợi thế của từng địa phương, từng vùng kinh tế chưa được khai thác hết. Sự hợp tác và liên kết giữa các vùng kinh tế trong phát triển công nghiệp còn lỏng lẻo từ quy hoạch đến thu hút đầu tư và phân bổ nguồn lực.
Việc xây dựng và thực hiện các chính sách phát triển CNHT riêng biệt, đặc biệt là công tác bố trí nguồn lực, thu hút đầu tư vào lĩnh vực này còn hạn chế. Trong khi đó, phần lớn DN CNHT của Việt Nam lại là các DN vừa và nhỏ, hoạt động của DN gắn chặt với địa phương.
Về phía DN, khó khăn chính của họ khi tham gia vào chuỗi giá trị của các tập đoàn lớn đầu tiên là hạn chế về khả năng tài chính. Bên cạnh đó, công nghệ, thiết bị, công tác quản trị DN của các DN cũng hạn chế. Thực tế các DN quy mô còn rất nhỏ, về cơ bản chưa làm chủ được máy móc, thiết bị để có thể đáp ứng được các tiêu chuẩn mà các DN lớn yêu cầu, nên rất khó tham gia được vào chuỗi.
Thời gian tới, Trung ương và các địa phương cần phối hợp chặt chẽ hơn nữa trong việc xây dựng các chính sách tại địa phương để làm sao hỗ trợ được trực tiếp cho các DN. Các địa phương cũng cần chủ động hơn nữa trong việc phát triển ngành CNHT, đồng thời cần có những chính sách để khi các DN tham gia đầu tư vào địa phương của mình phải có những ràng buộc trong phát triển các DN nội địa.
Vũ Trìu
